Player FM - Internet Radio Done Right
11,488 subscribers
Checked 1d ago
Menambahkan nine tahun yang lalu
Konten disediakan oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. Semua konten podcast termasuk episode, grafik, dan deskripsi podcast diunggah dan disediakan langsung oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt atau mitra platform podcast mereka. Jika Anda yakin seseorang menggunakan karya berhak cipta Anda tanpa izin, Anda dapat mengikuti proses yang diuraikan di sini https://id.player.fm/legal.
Player FM - Aplikasi Podcast
Offline dengan aplikasi Player FM !
Offline dengan aplikasi Player FM !
Tạp chí đặc biệt
Tandai semua (belum/sudah) diputar ...
Manage series 130294
Konten disediakan oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. Semua konten podcast termasuk episode, grafik, dan deskripsi podcast diunggah dan disediakan langsung oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt atau mitra platform podcast mereka. Jika Anda yakin seseorang menggunakan karya berhak cipta Anda tanpa izin, Anda dapat mengikuti proses yang diuraikan di sini https://id.player.fm/legal.
Phân tích những hồ sơ lớn, nóng bỏng.
162 episode
Tandai semua (belum/sudah) diputar ...
Manage series 130294
Konten disediakan oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. Semua konten podcast termasuk episode, grafik, dan deskripsi podcast diunggah dan disediakan langsung oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt atau mitra platform podcast mereka. Jika Anda yakin seseorang menggunakan karya berhak cipta Anda tanpa izin, Anda dapat mengikuti proses yang diuraikan di sini https://id.player.fm/legal.
Phân tích những hồ sơ lớn, nóng bỏng.
162 episode
All episodes
×T
Tạp chí đặc biệt


1 Bang giao quốc tế náo loạn trong 100 ngày đầu nhiệm kỳ TT Trump 9:40
9:40
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai9:40
Các đồng minh của Mỹ mất phương hướng. Chính quyền Trump gây sức ép với Kiev, chiều ý Matxcơva để đạt được một thỏa thuận ngừng bắn cho Ukraina nhưng kết quả không nhiều. 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, chất độc da cam vẫn hành hạ hàng triệu người Việt Nam vào lúc Hoa Kỳ ngừng chính sách viện trợ quốc tế làm tê liệt các chương trình hỗ trợ tẩy chất độc dioxin. Tham gia chính quyền, Elon Musk đang bị gạt dần ra ngoài tập đoàn Tesla do chính ông sáng lập. Ngày 30/04/2025 đánh dấu 100 ngày nhiệm kỳ 2 của tổng thống Mỹ Donald Trump. 100 ngày làm chao đảo bang giao quốc tế khi mà lãnh đạo Nhà Trắng lặp đi lặp lại đòi hỏi chủ quyền với Canada sát cạnh, với đảo Groenland vùng tự trị đặt dưới quyền kiểm soát của Đan Mạch hay đòi Panama « trả lại » cho nước Mỹ con kênh mà Hoa Kỳ đã « tốn nhiều công của » để rồi cho Trung Quốc hưởng lợi. Từng hứa hẹn « giải quyết chiến tranh Ukraina trong 24 giờ » tổng thống Trump đối mặt với thực tế : 100 ngày từ khi ông trở lại lãnh đạo đất nước, Ukraina vẫn chưa im tiếng súng. Đàm phán với Nga chấm dứt chiến tranh Ukraina : Putin không nhượng bộ bất kỳ điều gì. Chỉ còn đọng lại hình ảnh cuộc đấu khẩu nẩy lửa tại Nhà Trắng với tổng thống Ukraina hôm 28/02/2025 để rồi ông Volodymyr Zelensky bỏ dở cuộc họp mà hậu quả kèm theo là phải đến 2 tháng sau, ngày 30/04/2025 thỏa thuận khoáng sản Mỹ-Ukraina mới được ký kết. Trong khi đó, cộng đồng quốc tế bất ngờ vì cuộc điện đàm hôm 18/03 giữa nguyên thủ Mỹ và đồng cấp Vladimir Putin cùng với lời mời tổng thống Nga công du Hoa Kỳ vào thời điểm thuận lợi. Châu Âu phải tự lo thân Với Liên Hiệp Châu Âu, Donald Trump nhiều lần khẳng định khối này được lập ra là để « rút ruột » Hoa Kỳ, vươn lên được nhờ « lợi dụng lòng tốt của nước Mỹ » . Phó tổng thống JD Vance đến dự Hội Nghị An Ninh Munich giữa tháng 2/2025 khó chịu vì Lục Địa Già ủy thác an ninh của chính mình cho Mỹ. Châu Âu bối rối không biết còn tin tưởng được vào Mỹ đến mức độ nào nhất là khi Washington vừa muốn bỏ rơi Ukraina, vừa đòi Châu Âu bảo đảm an ninh cho Ukraina, vừa dễ dàng bắt tay Matxcơva, thậm chí là tính tới giải pháp dỡ bỏ cấm vận kinh tế Nga. Nhìn từ Bruxelles, trụ sở Liên Hiệp Châu Âu, 100 ngày vừa qua, Donald Trump đẩy các đồng minh châu Âu vào chân tường, khối này bắt buộc phải tổ chức lại nếu không, có nguy cơ bị tan rã. Thông tín viên Pierre Benazet giải thích : « Donald Trump đã làm chao đảo mối quan hệ xuyên Đại Dây Dương, mà đầu tiên hết là liên quan đến chiến tranh Ukraina. Hoa Kỳ đã có lập trường khác hẳn với Liên Âu để rồi Bruxelles giờ đây bị đẩy vào thế phải đối mặt với nguy cơ chiến tranh. Lần đầu tiên từ khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc năm 1945, xung đột vũ trang ở quy mô lớn đang diễn ra tại châu lục này, cho dù trước đây châu Âu đã phải đối diện với chiến tranh ở Nam Tư cũ trong thập niên 1990, làm khoảng 140.000 người chết. Nhưng chiến tranh ở Kosovo vẫn bị coi là chỉ mang tính khu vực. Với Ukraina lần này thì khác. Đây là một cuộc chiến lan rộng và đặc biệt ảnh hưởng đến ba nước trong vùng Baltic cũng như Ba Lan. Trong khi đó, châu Âu chưa sẵn sàng để có một chính sách phòng thủ chung (…) Chưa bao giờ Liên Âu nghĩ sẽ phải một mình yểm trợ Ukraina và đó là hậu quả từ chính sách của ông Trump. Do vậy khối này khẩn trương hướng tới một chính sách phòng thủ chung châu Âu và nhất là đồng loạt tăng ngân sách quốc phòng. Trong nhiệm kỳ đầu của tổng thống Trump châu Âu đã miễn cưỡng cam kết dành đến 2 % GDP cho ngân sách quốc phòng. Giờ đây mục tiêu đó là điều tất yếu và thậm chí tất cả đều đang đẩy nhanh tiến độ để đạt đến mục tiêu này. Riêng Ba Lan đã vượt cả Hoa Kỳ về tỷ lệ chi tiêu quân sự so với GDP. Thế rồi châu Âu cũng bực mình vì chính sách ngoại giao của Mỹ không cho phép đem lại những kết quả cụ thể chấm dứt chiến tranh Ukraina, nên khối này đã đưa ra một đề xuất khác nhằm vãn hồi hòa bình cho Ukraina » Thương mại : Xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ tăng mạnh Về thương mại, một tác động bất ngờ từ khi tổng thống Mỹ Donald Trump dùng vũ khí « thuế đối ứng » để tuyên chiến với gần như toàn cầu : báo tài chính Nhật Bản Nikkei Asia hôm 01/05/2025 ghi nhật hiện tượng Malaysia và Việt Nam trong tháng 3/2025 « tăng tốc xuất khẩu sang Mỹ ». Tổng kim ngạch xuất khẩu của Malaysia vào Hoa Kỳ tăng 51 %, của Việt Nam tăng 32 % đạt gần 12 tỷ đô la trong riêng tháng 3/2025. Tờ báo này ghi nhận một số công ty như hãng dệt may Dony Garment « cấp bách giao hàng và ngừng nhận thêm đơn đặt hàng mới để tránh bị đánh thuế cao » . Mọi người còn nhớ trong cuộc họp báo ở Nhà Trắng hôm 02/04/2025, tổng thống Donald Trump loan báo mức thuế « đối ứng » nhắm vào từng đối tác thương mại trong thế xuất siêu với Hoa Kỳ. Việt Nam là một trong những quốc gia bị nặng nhất với mức thuế 46 %. Đành rằng một tuần lễ sau đó, cũng ông Trump loan báo tạm hoãn áp dụng đòn trừng phạt này trong 90 ngày để cho thế giới có thể đàm phán, nhưng Trung Quốc là một ngoại lệ. Từ đó đến nay, hai ông khổng lồ kinh tế trên thế giới đang lao vào một cuộc chiến sinh tử mà cả Bắc Kinh lẫn Washington cùng có vẻ lúng túng để tìm một « lối thoát trong danh dự » . Hôm 30/04/2025, bộ trưởng Tài Chính của tổng thống Trump, Scott Bessent đòi Trung Quốc « xuống thang » . Ở góc đài bên kia, Bắc Kinh không vội. Bộ Thương Mại nước này còn đang « thẩm định tình hình » và cho rằng thực vô lý khi phải « xuống thang » khi mà Hoa Kỳ đơn phương gây nên sóng gió. Việt Nam 50 năm kết thúc chiến tranh, 3 triệu người vẫn còn sống với hậu quả chất độc da cam Cũng 30/04/2025 đánh dấu tròn 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam. Nửa thế kỷ qua, hậu quả của chất độc da cam vẫn hành hạ hàng triệu người dân Việt Nam, kể cả những người sinh ra sau chiến tranh : « những nạn nhân vô tội » . Hãng tin Mỹ AP nhắc lại trong cuộc chiến này Hoa Kỳ đã « rải hơn 72 triệu lít chất khai quang : Đất đai và các nguồn nước bị ô nhiễm » vì chất dioxin được ghi nhận tại 58 trong tổng số 63 tỉnh thành của Việt Nam. AP đưa ra con số ba triệu người, trong đó có nhiều trẻ em, phải sống với những dị tật bẩm sinh, bị ung thư do bị phơi nhiễm với chất độc da cam. Việt Nam cũng đã mất hàng thập niên để gột tẩy tàn dư độc hại của chiến tranh. Từ 1991, Hoa Kỳ đã chi ra hơn 155 triệu đô la để hỗ trợ Việt nam trong nhiệm vụ này, đặc biệt là tại các khu vực bị phơi nhiễm nặng nhất như Đà Nẵng, Biên Hòa … Vẫn theo AP, hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh là một nền tảng trong quan hệ giữa hai nước cựu thù. Năm 2023 Mỹ và Việt Nam đã nâng quan hệ lên cấp cao nhất, ở mức « đối tác chiến lược toàn diện » . Hai năm sau, ngay trong ngày đầu tiên của nhiệm kỳ, tổng thống Donald Trump ban hành sắc lệnh đình chỉ hầu hết viện trợ nước ngoài, đóng cửa Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế Hoa Kỳ USAID, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác giúp đỡ Việt Nam tẩy độc chất khai quang. Trả lời AP, chủ tịch hiệp hội nạn nhân chất độc da cam tại Đà Nẵng, ông Nguyễn Văn An vẫn kỳ vọng vào sự hỗ trợ của chính phủ Mỹ và của tập đoàn hóa chất Monsanto hỗ trợ các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam : « Việt Nam không thể tự xử lý khối lượng hóa chất độc hại còn tồn đọng nếu không có sự hỗ trợ (…) Chúng tôi luôn tin rằng chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất hóa chất độc hại này phải có trách nhiệm hỗ trợ các nạn nhân ». Chủ tịch Hiệp hội nạn nhân chất độc da cam tại Đà Nẵng hy vọng nếu các dự án bị gián đoạn thì đây chỉ là hiện tượng tạm thời do các biến động chính trị tại Washington. Tesla đang đẩy chủ nhân ra khỏi cửa ? Từ trước khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng và nhất là trong 100 ngày đầu nhiệm kỳ vừa qua, tỷ phú Elon Musk, chủ nhân tập đoàn ô tô điện Tesla luôn sát cánh với tổng thống Mỹ thứ 47. Nhưng từ khi Musk được mời lãnh đạo bộ Hiệu Quả Chính Phủ, cổ phiếu của tập đoàn Tesla đã mất giá 35% và nhất là số xe bán ra cũng đã giảm mạnh tại Mỹ cũng như tại châu Âu. Trong tháng 2/2025, số xe Tesla bán ra tại Đức giảm 70 %. Khách hàng của Pháp cũng đã quay lưng lại với những chiếc ô tô điện có dấu ấn của Elon Musk : thị trường Pháp trong tháng 4/2025 giảm 59 % so với cùng thời kỳ năm ngoái. Càng lúc càng rộ lên tin đồn tỷ phú Elon Musk có thể sẽ phải từ bỏ chức vụ tổng giám đốc của công ty chính ông đã lập ra. Thông tín viên Guillaume Naudin từ Washington cho biết : « Cả Tesla lẫn Elon Musk cùng mạnh mẽ bác bỏ đến cùng, nhưng The Wall Street Journal vẫn giữ nguyên những thông tin đã loan tải. Theo tờ báo tài chính này, hội đồng quản trị đã bắt đầu âm thầm tìm kiếm người thay thế Elon Musk vì quan niệm Musk cần dành nhiều thời gian hơn cho công ty. Trong 6 tháng trở lại đây, ông chủ yếu hoạt động chính trị : Elon Musk ủng hộ Donald Trump trong cuộc vận động tranh cử, rồi can thiệp cổ vũ cho các phong trào cực hữu trên tế giới. Elon Musk cũng đã thi hành nhiệm vụ mạnh tay cắt giảm ngân sách của chính quyền liên bang, sa thải nhân viên làm việc cho chính phủ. Người tiêu dùng - những khách hàng của Tesla, không hài lòng về những việc làm đó. Mọi nơi trên thế giới, số lượng xe của hãng này bán ra bị sụt giảm. Lợi nhuận của các cổ đông giảm đến 71 %. Đấy là chưa kể đến những hậu quả tai hại đối với hình ảnh của tập đoàn : nhiều cuộc biểu tình diễn ra tại các đại lý của Tesla, một số bị phá hoại. Những ai có xe Tesla phải dán giấy ghi rõ là họ đã mua xe trước khi Elon Musk thay đổi lập trường chính trị. Donald Trump cố gắng cứu vãn tình hình. Ông đã sắm một chiếc Tesla và đậu ngay trong vườn của Nhà Trắng. Tổng thống Hoa Kỳ cũng khẳng định là Elon Musk hoàn toàn có chỗ đứng trong nội các và cộng tác với ông cho đến bất cứ lúc nào. Tuy nhiên tổng thống Trump cũng nhìn nhận có lẽ Musk cần tập trung trở lại để chăm lo cho hãng xe của mình ».…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Áp lực của Kissinger với Việt Nam Cộng Hòa: Hồi tưởng của ông Hoàng Đức Nhã 50 năm sau ngày 30/04 20:41
20:41
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai20:41
Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc nửa thế kỷ. Thời gian đã xa nhưng với nhiều người, 30/04/1975 như chỉ mới hôm qua: Lịch sử như ngưng đọng. 50 năm trôi qua, nhưng giai đoạn lịch sử này dường như vẫn còn nhiều mảng trống. Những gì đã dẫn đến kết cục 30/04/1975? Quan hệ giữa chính quyền Mỹ với chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã đóng vai trò gì trong kết cục này?... Nhân dịp tròn 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, ban tiếng Việt đài RFI phỏng vấn ông Hoàng Đức Nhã, nguyên cố vấn của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, và cũng là người trực tiếp cố vấn tổng thống trong các đàm phán dẫn đến Hiệp định Paris về Việt Nam 1973. Ông Hoàng Đức Nhã, tốt nghiệp cử nhân kỹ thuật điện tại Hoa Kỳ năm 1965. Năm 1967, ông được bổ nhiệm làm bí thư (tức cố vấn) và phát ngôn viên của tổng thống, rồi tổng trưởng (tức bộ trưởng) Dân Vận và Chiêu Hồi từ năm 1973 đến cuối năm 1974. Trên cương vị bộ trưởng, ông đã chủ trì hai chương trình trại hè Nối Vòng Tay Lớn năm 1973 và Đường Việt Nam năm 1974 để sinh viên trong và ngoài nước hợp sức, học hỏi nhau đóng góp xây dựng đất nước. Từ năm 1975 đến năm 2003, ông làm việc tại ba công ty lớn là General Electric, FMC Corporation và Monsanto Company tại Mỹ. Từ năm 2004, ông đồng sáng lập một công ty chuyên về phân tích dữ liệu lớn và là giám đốc điều hành cho đến khi nghỉ hưu năm 2012. Ông Hoàng Đức Nhã hiện sống ở Chicago. Sau đây mời quý vị theo dõi những hồi tưởng và suy tư của ông Hoàng Đức Nhã nhân dịp tròn 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam. *** 30/04 là kết cục của cả một tiến trình « rất dài » RFI : Xin kính chào ông Hoàng Đức Nhã. Tôi rất vui có được cơ hội này để chia sẻ với khán thính giả của đài ở Việt Nam cũng như trên thế giới về cái diễn biến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thật sự 30 tháng 4 chỉ là một cái thời điểm nhưng mà cái tiến trình dẫn đến 30 tháng 4 rất dài. RFI : Trước hết xin ông có thể chia sẻ một đôi chút về thời điểm 30 tháng 4 : Lúc đấy ông ở đâu và làm gì ạ? Ngày 30/04/1975, tôi vừa được máy bay của không quân Hoa Kỳ đưa đến đảo Guam. Lúc ấy coi như là một cái cửa khẩu vào Hoa Kỳ và những người tị nạn từ miền Nam Việt Nam phải vào đó để làm giấy tờ được nhập cảnh. Trước ngày 30 tháng 4 tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford đã ký một sắc lệnh đặc biệt cho phép những người miền Nam Việt Nam được nhập cảnh Hoa Kỳ với tư cách là tị nạn chính trị. Thành thử ở đó không phải đợi lâu. Chúng tôi đến Guam trong vòng mấy tiếng đồng hồ là có được cái mẫu giấy chứng nhận. Khi chúng tôi ra khỏi máy bay vào phòng của sở nhập trú thì nghe tin ông Dương Văn Minh đã đầu hàng và coi như miền Nam Việt Nam không còn nữa. Đó là một cái nỗi buồn tới giờ này không nguôi. « Đấu khẩu » Trump – Zelensky : Chính quyền Nixon thời đó « dữ tợn hơn nhiều » RFI : Thưa ông, cái thời điểm lịch sử cách đây 50 năm rồi, nhưng với không ít người hiện nay, dường như có một sự kiện, một không khí ít nhiều gợi nhớ đến ngày 30 tháng 4 1975 của Việt Nam. Chắc ông cũng theo dõi là sự kiện ngày 28/2 vừa qua tại Nhà Trắng, với cuộc gặp giữa tổng thống Mỹ Donald Trump và người lãnh đạo Ukraina Volodymyr Zelensky. Tôi thấy dù báo chí bên phía tả ở Hoa Kỳ họ cho ông Trump với ông Vance rất là cộc cằn, hay là dùng lời lẽ không ngoại giao đối với ông Zelensky. Nhưng tôi thấy nếu nói ông Trump hay ông Vance những lời lẽ không nhã nhặn, thì nhớ lại cái thời kỳ miền Nam Việt Nam chúng tôi thương thuyết với ông Kissinger (ngoại trưởng Mỹ) với ông Nixon (tổng thống Mỹ), thì họ cộc cằn, dữ tợn hơn nhiều. Khi gặp ông Zelensky, ông Trump nói lớn tiếng chứ ông không có cái gọi là mỉa mai hay là giận dữ như là hồi chúng tôi đã đối phó với các ông Kissinger và Nixon. Đấy là điểm thứ nhất. Điểm thứ nhì ít ai biết, theo tôi với tư cách là một quan sát viên, cũng là người đã từng thương thuyết ở cấp rất cao, cấp tổng thống, cấp lãnh tụ đất nước. Tôi thấy cử chỉ ông Zelensky không đúng lễ độ của một nhà ngoại giao. Việt Nam mình có cái văn hóa, nghĩa là dù ở bên Pháp với bên Mỹ, khi mình ăn nói, mình cũng tỏ vẻ lễ độ. Nhưng tôi muốn nói rằng lúc đó Việt Nam Cộng Hòa ở trong thế yếu. Câu hỏi của Thành đã làm tôi nhớ lại cái thời kỳ đó. Ròng rã mấy tháng trời, ngày nào cũng họp. Ngày nào cũng họp, nghĩa là rất nhức đầu nhức óc, nhưng mà vì quyền lợi của nhân dân miền Nam chúng tôi, tổng thống Thiệu với tôi rất là điềm đạm trình bày. Rốt cuộc sau đó Hoa Kỳ cũng phải công nhận là chúng tôi rất là lễ độ và đưa ra những cái lập luận rất là vững chắc, chứ không phải là xúc động mà nói tầm bậy. Vì quyền lợi của nhân dân miền Nam, chúng tôi đã rất nhã nhặn, lễ độ RFI : Ông có thể cho thính giả biết một đôi chút bối cảnh như thế nào và một số những chi tiết để mọi người có thể hình dung rõ hơn được không ạ? Lúc thương thuyết gọi là mặt gặp mặt giữa ông tổng thống Thiệu với tôi một bên, còn bên Mỹ là ông Henry Kissinger từ Hoa Thịnh Đốn bay qua Sài Gòn, và đi với đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, chúng tôi thường gọi là « cuộc họp bốn bên ». Ông Kissinger tính cũng cục cằn, ổng đưa ra mấy cái văn thư rồi nói tổng thống Nixon rất bất bình với mấy ông. Phía Việt Nam mình, tổng thống rất là điềm đạm : Không, chúng tôi thấy cái điều khoản này nè, đoạn văn này không đúng, không phản ảnh được nguyện vọng của miền Nam chúng tôi, mà chúng tôi đã nói với quý ông Hoa Kỳ mấy tháng trước rồi, nhưng mà tôi thấy trong cái bản này mấy ông cứ lặp lại cái đòi hỏi của mấy ông cũng như của Hà Nội, chúng tôi nhất định không ký một hiệp định hại cho dân. Nên có lúc ông Kissinger nói thẳng với tổng thống Thiệu : « Chúng tôi sẽ có những cái phản ứng rất táo bạo, nếu mấy anh không ký ». Tổng thống của tôi cứ tỉnh bơ : Chúng tôi không bao giờ ký một cái hiệp định mà hại cho dân của tôi. Xong nói thêm một câu nữa, ông Kissinger quay qua tôi nói : Hai anh em ông (vì tôi là em họ của tổng thống Thiệu), hai anh em ông đừng bao giờ cố thành « martyr », họ dùng chữ « thánh tử đạo ». Mà lúc đó, chúng tôi rất là bình tĩnh : Thưa ông cố vấn, chúng tôi vẫn không ký. Họp với Kissinger: Tổng thống Thiệu nói tiếng Việt, Hoàng Đức Nhã phiên dịch Đó là thời điểm ngày 22/10/1972. Ròng rã bốn ngày. Cái ngày chót vừa kể là ngày 22. Mỗi ngày hai tiếng họp, bốn năm tiếng đồng hồ, rất là căng thẳng. Phía Hoa Kỳ, thì chỉ có mình ông Kissinger nói, ông đại sứ ngồi yên. Bên phía chúng tôi, lúc đó ông tổng thống Thiệu, tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa nói bằng tiếng Việt. Tôi lúc đó với tư cách là bí thư của tổng thống, tôi dịch ra. Thành ra bên phía họ thì họ cũng ức nên nói tổng thống của anh biết nói tiếng Anh, nhưng mà tại sao là phải qua anh dịch. Tôi mới trả lời là những cái ghi nhận lại, chúng tôi sẽ trình lên Quốc hội, chúng tôi hành xử như một người lãnh đạo của một cái quốc gia có chủ quyền. Chúng tôi nói tiếng Việt. Một điểm nữa là ngày cuối cùng đó, ngày 22, khi ông ta ra về, từ đó mà đi ra tới cầu thang đi xuống khu mà chỗ xe hơi đậu, tôi đưa ra với ông đại sứ Bunker thì ông Kissinger ổng bực tức, ổng lầu bầu nói, đây là cái thất bại ngoại giao lớn nhất của tôi, tôi sẽ không bao giờ trở lại Sài Gòn. Tôi trả lời ngay chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng đón ông cố vấn của tổng thống Hoa Kỳ, ông cố vấn lúc nào đến Sài Gòn là chúng tôi cũng sẽ trọng đãi. Bất đồng với Mỹ về đàm phán với miền Bắc: Cuộc đối đầu 4 năm và lời đe dọa « hành động táo bạo » RFI : Diễn đạt « hành động táo bạo » của ông Kissinger có nghĩa là gì ạ ? Trong ngoại giao họ không nói giết ông. Tiếng Anh họ nói « we will take brutal action », có thể nói là « trả đũa bằng hành động táo bạo ». Táo bạo là cái gì? Sát hại chứ còn gì? Ông Kissinger không bao giờ bốc đồng cả. Một chữ của ông ta là ông cân nhắc lúc này lúc kia nhưng mà nghĩ lại tôi thấy ông ta càng bực tức khi thấy ông tổng thống Thiệu với tôi rất bình tĩnh, rất tươi cười và rất lễ độ. RFI : Thưa ông, vào thời điểm năm 1968, những người quan sát thời đó ghi nhận việc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa dường như là ngay từ đầu đã bất đồng với chính quyền Mỹ trong việc thương thuyết với miền Bắc có đúng không ạ ? Cái điều đó đúng ! Nhưng tôi phải nói thêm là bất đồng không phải là không muốn thương thuyết mà là bất đồng về cái thể thức thương thuyết. Thể thức thương thuyết là một hành động rất quan trọng. Thưa ông Hoa Kỳ, bây giờ mình đi qua nói chuyện bên phía Bắc Việt. Bây giờ mình đưa những cái đề tài gì : rút quân, tái lập hòa bình … , Những điểm nào là nguyên tắc, đâu là các chi tiết. Phải đồng ý trên cái nguyên tắc rồi mới nói về chi tiết. Rồi phần nào mà Hoa Kỳ nói, phần nào Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi nói ? Ví dụ như là tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam. Tại sao ông lại nói về cái đó ? Phải là chúng tôi chứ ! Không thể là ông được ! Đó là những cái ví dụ mà tôi nói là thể thức để tiến hành cái cuộc thương thuyết ! Nhiều người Mỹ nói cái chuyện đó mấy ông đừng lo ! Để chúng tôi lo ! Tôi nói không được ! Tại sao như vậy ? Nghĩa là tôi phải giải thích với Quốc Hội của tôi, với nhân dân của tôi là Hoa Kỳ sẽ lo về tương lai chính trị của miền Nam thì cái đó người ta chửi cho. Tại sao ông để cho quốc gia khác thương thuyết về tương lai của miền Nam mình... Khi ông Nixon lên (đầu năm 1969), Hoa Kỳ mới sửa đổi, chúng tôi mới đồng ý. Giữa tháng Giêng 1969 phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa mới sang Paris. Đó là cái ví dụ để cho thấy cái lập trường vững của phía Việt Nam Cộng Hòa. Không phải chúng tôi chống, nghĩa là chúng tôi chống hòa bình, chúng tôi sợ mất ghế tổng thống. Không phải ! Từ 1967 trước khi đắc cử tổng thống, khi ông Nguyễn Văn Thiệu còn là trung tướng, chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia, ông nói chúng tôi miền Nam Việt Nam hiểu rằng một ngày nào Hoa Kỳ muốn đem con em quân lính về, quân lực Việt Nam Cộng Hòa lúc nào cũng sẵn sàng đảm nhận cái trách nhiệm để bảo vệ bờ cõi và bảo vệ nhân dân. Chúng tôi chỉ xin Hoa Kỳ viện trợ súng đạn, công cụ chiến tranh để chúng tôi tiếp tục chiến đấu. Chống lại những bóp méo của người Mỹ về Việt Nam Cộng Hòa: Cuộc chiến truyền thông xuyên thế kỷ Mình đã nói từ 1967. Những lúc đó, báo chí hay là mấy cái ông trong Quốc Hội (Mỹ), mà nói rằng mấy ông sợ hòa bình. Nhiều khi tôi đi qua bên Hoa Kỳ trong những chuyến công tác, tôi nói chuyện với báo chí với lại những người phụ tá của mấy ông dân biểu, nghị sĩ, tôi nói : Chúng tôi nói cái gì mấy ông ghi nhớ chứ đừng cứ nói là chúng tôi ngoan cố (chống đàm phán hòa bình). Giữa đồng minh với nhau nhiều khi họ cố ý họ dùng báo chí họ vu cáo mình. Lúc đó tôi vừa là bí thư, vừa là phát ngôn viên. Không có ngày nào mà tôi không phải chỉnh mấy người làm báo chí Hoa Kỳ ở Sài Gòn, viết lệch lạc, theo cái mà họ muốn mà không bao giờ chịu phản ảnh những cái gì mà chính phủ Việt Nam lúc đó chính thức công bố. RFI : Phải chăng thiếu s ự ủng hộ của Quốc Hội Mỹ là nguyên nhân chính dẫn đến cái sự sụp đổ khó tránh khỏi của Việt Nam Cộng Hòa, thưa ông ? Cái đó rất đúng ! Hãy nhớ rằng tháng 11/1972 lúc đó là ông tổng thống Nixon tái đắc cử nhiệm kỳ nhì, nhưng Quốc Hội mới đa số là đảng Dân Chủ. Khi mà một Quốc Hội có đa số là đảng đối lập, trong trường hợp này là đảng Dân Chủ, thì phía hành pháp của đảng Cộng Hòa ở trong thế yếu thôi. Yếu hơn nữa đó là vì ông Nixon bị lâm vào cái vụ Watergate, rồi rốt cuộc phải từ chức vào tháng 8/1974. Thì từ đó cho đến 30 tháng 4/1975 đi xuống dốc rất là nhanh. RFI : Về phía xã hội miền Nam Việt Nam, theo ông , có những hy vọng mở ra cho một cái kết cục mình tạm gọi là ít bạo lực hơn không ạ? Thật ra, ít có người muốn theo dõi kỹ lập trường của Việt Nam Cộng Hòa trong vấn đề thương thuyết. Nghĩa là phía Việt Nam Cộng Hòa đã nói rõ là Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi sẵn sàng nói chuyện với phía Cộng Sản bên kia để đi đến có thể nói là một giải pháp chính trị trong đó quyền lợi của người dân tại miền Nam Việt Nam được bảo đảm và hai miền Nam Bắc sẽ hợp với nhau, tại vì cũng con cháu của một mẹ Việt Nam cả. Thì đã nói rõ ràng, nhưng mà vì hai bên đã chiến đấu với nhau ròng rã mấy chục năm, thì bây giờ phải có một phương thức rõ ràng, nói thế nào phải thi hành thế ấy. Chứ không phải vì phải chấm dứt chiến tranh mà phía Việt Nam Cộng Hòa không cần đàm phán về hòa bình nữa. Nhưng mà cái điểm đó người Mỹ thì không bao giờ chịu nhắc đến, cứ tìm đủ mọi cách gọi là đổ lỗi. Cái chính trị của người Mỹ hay tìm cách, nghĩa là mình nói cái chữ « chạy tội » thì quá đáng đi, nhưng mà là họ bóp méo sự thật, hay là họ dùng những cái từ ngữ hay là cái danh từ hay là cách hành văn của họ để cho thấy lúc nào họ cũng có lý cả. Miền Nam Việt Nam từng có một nền Cộng hòa lập hiến Thành thử ra suốt bao nhiêu năm nay, nhất là 15 năm vừa rồi, từ khi tôi về hưu, hoài bão của tôi là đi nói chuyện với cái giới khoa bảng, cấp đại học, giáo sư. Tôi thách đố họ, tôi nói mấy ông gọi là các tiến sĩ, các nhà nghiên cứu, hiểu cách phân tích vấn đề, vấn đề nào cũng có nhiều khía cạnh, chứ không phải chỉ một chiều, vậy mà mấy ông cho người ta cái cảm tưởng là những cái gì mấy ông viết ra là « dishonest », không có lương tâm, không có đạo đức, dù mấy ông là tiến sĩ ở Harvard, ở Princeton, Columbia, Berkeley. Ông nói những cái chuyện đó, mà ông không cho biết lập trường của chúng tôi từ trước tới giờ. Chúng tôi không bao giờ từ chối hòa bình cả. Đó là cái điểm thứ nhất. Mà hơn nữa trong lúc miền Nam chúng tôi chống giặc xâm lăng, chúng tôi vẫn tiếp tục xây dựng một nền dân chủ tại miền Nam Việt Nam. Chúng tôi có một hiến pháp. Chúng tôi là một thể chế cộng hòa lập hiến. Làm gì cũng theo luật pháp. Nhưng không, bây giờ họ không bao giờ đề cập đến điều đó. Thành thử ra người dân thường hay các em sinh viên, học sinh, đọc thấy tưởng là mấy cái ông này là hiếu chiến, tối ngày không có chịu thực thi dân chủ. Đâu có ai biết là miền Nam lúc đó có một cái hiến pháp rất là tốt. Quyền căn bản của mọi công dân được bảo vệ trong cái hiến pháp đó. Miền Nam Việt Nam lúc đó có bầu cử đa đảng, từ trung ương xuống địa phương. Có một nền tư pháp độc lập, có một lập pháp độc lập... Cái thế hệ sau này ở Hoa Kỳ có nhiều người trẻ gốc Việt, tôi rất mừng là các em đó chịu khó nghiên cứu. Ngoài cái khía cạnh quân sự, còn có khía cạnh dân sự, khía cạnh xã hội. Nghĩa là trong lúc lính của Việt Nam Cộng Hòa giữ vững bờ cõi, thì người dân trong các làng, ấp, các đô thị, vẫn được sống trong một chế độ dân chủ, có quyền bầu cử… Thì cái điểm đó ở Hoa Kỳ họ không chịu công nhận. « Khát vọng chưa thành » : Mong ước hòa giải hòa hợp dân tộc trên cơ sở các quyền tự do căn bản được tôn trọng RFI : Thưa ông, vừa rồi được biết là ông có một cuốn sách mới ra mắt, cuốn « Hoàng Đức Nhã - Khát vọng chưa thành ». Rất mong được ông cho biết là ông muốn chuyển tài thông điệp chính gì qua cuốn sách này ? Cái chữ « Khát vọng chưa thành » nói lên hoài bão của tôi là một nhân viên trong chính phủ, một người trai tương đối trẻ tuổi, được may mắn đi du học, hiểu biết nhiều hơn không những về chuyên môn, mà quan trọng nhất là hiểu biết về điều có thể nói là một chế độ dân chủ. Người dân dù ở giai tầng nào cũng thấy rõ được quyền gì và không được quyền gì. Và từ đó người dân có được cái quyền đó để tự họ làm ăn buôn bán, làm luật sư, bác sĩ, nhà báo… trong khuôn khổ của luật lệ quốc gia. Thì có như vậy thì quốc gia mới tiến được. Khi tôi nói cái khát vọng tôi chưa thành đó là vì, rất tiếc là vì cái cuộc chiến sau Hiệp định Paris dập tan, không có cơ hội để tiếp tục. Tại vì theo tôi nghĩ, người dân có tự do mới có sáng kiến, mà có sáng kiến thì mới có sản xuất và từ đó mới giúp phát triển quốc gia được. RFI : 50 năm sau sự kiện lịch sử 30 tháng 4, thưa ông, ông có cái cảm nghĩ gì về những nỗ lực của người Việt hiện nay trong việc hướng đến hòa giải, hướng đến xây dựng một cái xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn ? Thật sự người Việt Nam, theo tôi nghĩ, ở hai miền ở miền Bắc cũng như ở miền Nam cũng mong muốn rằng sự chấm dứt chiến tranh đưa đến một cái tình trạng mà hai bên có thể ngồi nói chuyện với nhau đi đến một cái giải pháp chính trị mà hai bên có thể chấp nhận. Người Việt Nam chúng ta dù ở phía Cộng Sản Bắc Việt hay trong miền Nam tự do đều yêu nước và đều muốn sống ở trong hòa bình. Trước hiệp định Paris, miền Nam cũng đã nói : chúng tôi sẵn sàng ký hiệp định rồi hai bên ngồi nói chuyện với nhau đi đến một cái giải pháp chính trị qua một cuộc bầu cử tự do. Nhân dân miền Nam trước 1975 sống trong một cái thể chế Cộng hòa lập hiến. Trong đó có một cái hiến pháp bảo vệ các quyền lợi căn bản của người dân. Thế hệ tương lai mà chúng tôi gọi là thế hệ hậu duệ đó, hiểu rằng tại sao các bậc cha bậc anh đã chiến đấu. Thành thử ra ngày nào đó những người thuộc thế hệ hậu duệ ở Việt Nam bây giờ có những cái điều kiện tiên quyết đó thì theo tôi nghĩ chắc chắn lúc đó họ sẽ tham gia một cách tích cực hơn. RFI : Xin cảm ơn ông Hoàng Đức Nhã .…
T
Tạp chí đặc biệt


1 100 ngày đầu của Trump nhiệm kỳ hai: Dư luận Việt Nam trước cú sốc thuế quan 8:46
8:46
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai8:46
Hôm nay, 30/04/2025, đúng 100 ngày tổng thống Mỹ Donald Trump cầm quyền trong nhiệm kỳ thứ hai của ông, 100 ngày mà toàn bộ đất nước Hoa Kỳ bị đảo lộn do chính sách những chính sách của tân chủ nhân Nhà Trắng, như chính sách tinh giản tối đa bộ máy nhà nước, chính sách cực kỳ gắt gao chống nhập cư bất hợp pháp… Kể từ khi ông Trump trở lại Nhà Trắng, chưa bao giờ nhà nước pháp quyền của Mỹ bị thử thách như thế, thậm chí các quan chức cao cấp nhất trong chính quyền không ngần ngại kêu gọi phớt lờ những quyết định của ngành tư pháp. Nhà tỷ phú Cộng Hòa còn tấn công vào cả các trường đại học theo xu hướng cấp tiến như Harvard, bị xem là để “lan truyền tư tưởng bài Do Thái”. Cũng trong 100 ngày qua, ông đã khiến cả thế giới chao đảo với những đòn thuế quan dồn dập, trong đó Việt Nam là một trong những nước bị nặng nhất với mức thuế “đối ứng” lên tới 46%, một cú sốc lớn đối với người dân Việt Nam nói chung và đối với giới doanh nghiệp nói riêng. Trả lời RFI Việt ngữ, ông Lê Quang Huy, nhân viên một công ty ở Sài Gòn, nhận xét về 100 ngày đầu tiên của tổng thống Trump trong nhiệm kỳ 2: “Về 100 ngày đầu của ông Trump trong nhiệm kỳ thứ hai, thì ông ta đã ra nhiều quyết sách, đường lối về đối nội cũng như đối ngoại quan trọng và gây nhiều tranh cãi khiến cho tôi, trước đây là một người ủng hộ ông trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông, cũng cảm thấy sửng sốt và bất ngờ. Những chính sách đối nội và đối ngoại đó đã gây nhiều xáo trộn trong nội tình nước Mỹ cũng như trên quốc tế. Cụ thể là chính sách đối với người nhập cư, rồi chính sách đối với trường đại học Harvard.. Còn về quốc tế thì chẳng hạn như mức thuế đối ứng quá cao đối với các quốc gia, hay những thay đổi bất ngờ đối với các đồng minh truyền thống của Mỹ. Vì thế, theo như tôi được biết thì trong thời gian vừa qua, tỷ lệ ủng hộ ông trong nước Mỹ cũng bị giảm. Và trên thế giới thì ông cũng gây nhiều sự bất bình từ các đồng minh của truyền thống của Mỹ. Tôi nghĩ có lẽ mong muốn của ông là để thực hiện lời hứa làm cho nước Mỹ hùng mạnh trở lại, đưa sản xuất trở về nước Mỹ và tạo nên một cái trật tự thương mại mới trên thế giới để làm giảm bớt cái thâm hụt mậu dịch của Mỹ đối với các nước. Nhưng những động thái của ông có vẻ hơi mạnh tay và quá trớn khiến cho dư luận thế giới không đồng tình với ông. Và tôi nghĩ rằng các đồng minh của ông cũng cảm thấy không an tâm.” Về phần mình luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng Luật sư Hoàng Việt Luật ở Sài Gòn, cũng bày tỏ sự thất vọng về nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống Trump: “Khi ông Donald Trump đắc cử thì dân Việt Nam đa phần trông chờ vào sự lãnh đạo của ông Trump trong nhiệm kỳ mới, vì người dân Việt Nam thấy ông Trump rất là mạnh tay đối với Trung Quốc, kể cả về chiến lược quân sự, cũng như là về kinh tế thương mại. Cho nên người Việt Nam cũng rất là trông chờ Donald Trump mạnh tay với Trung Quốc, cũng như là có những mối quan hệ, hoạt động gắn kết với Việt Nam, đặc biệt khi một số người thấy tổng bí thư Tô Lâm có một kết nối trước khi ông Donald Trump đắc cử tổng thống, đó là một dự án sân golf ở Việt Nam hơn 1 tỷ rưỡi đô la. Khi ông Trump lên thì ai cũng mong chờ một cái sự thay đổi cũng như sự kết nối với Mỹ và Việt Nam. Tuy nhiên, sau một thời gian thì người Việt Nam cũng có những thay đổi nhìn nhận 100 ngày lãnh đạo của ông Donald Trump. Không phải là nhiệm kỳ này, mà ngay nhiệm kỳ trước, ông đã thể hiện một bản lĩnh không rõ ràng của một tổng thống Mỹ. Các đời tổng thống Mỹ khi lãnh đạo họ đều có một nguyên tắc chung: Khi họ nói vấn đề gì là vấn đề đó được đảm bảo, trên nguyên tắc là được thực hiện, cũng như có một cái giá trị, khi một tổng thống Mỹ, một người lãnh đạo thế giới, nói ra. Tuy nhiên đối với ông Donald Trump thì lại hoàn toàn khác. Hôm nay ông nói thế này, ngày mai ông nói thế khác, lệch pha với các nguyên tắc của các tổng thống trước đây. Ngoài những cái nguyên tắc đó, tôi nhận thấy ông Donald Trump không có một cái tính gọi là trung thực, đàng hoàng. Khi tôi quan sát phiên tòa New York xử ông về tội liên quan tới cô người mẫu khiêu dâm, thì ông hoàn toàn bác bỏ những điều mà cô người mẫu này nêu lên là trước đây có quen biết, có chụp hình, có đi đánh golf, có đi vào khách sạn: " Tôi không biết, tôi không biết cô này, cô này nói lung tung.” Một cái nữa: Luật sư Cohen, coi như là luật sư gia đình của ông Trump, khi đứng ra can thiệp trong vụ này và bị cảnh sát bắt, thì Donald Trump cũng không hề xem luật sư này là người thân của mình hoặc là người mình giao công việc mà bị gặp nạn. Ông chối bỏ toàn bộ. Như vậy, tôi thấy với tư cách của một nhà lãnh đạo mà lại - tôi dùng từ hơi nặng - có sự tráo trở như vậy, thì tôi nghĩ hành vi, tư duy của ông cũng sẽ ảnh hưởng đến những hành động, cũng như sự lãnh đạo của ông đối với nước Mỹ và toàn thế giới.” Không chỉ thất vọng về tư cách và cung cách lãnh đạo của ông Trump trong nhiệm kỳ thứ hai, nhiều người Việt Nam còn rất bất ngờ, nếu không muốn nói là bị sốc, vì mức thuế “đối ứng” lên đến 46% mà tổng thống Trump loan báo ngày 02/04 như là một biện pháp nhằm làm giảm thặng dư mậu dịch của Việt Nam với Hoa Kỳ. Ông Lê Quang Huy cho biết về phản ứng của người dân Việt Nam trước mức thuế này: “Về mức thuế suất đối ứng 46% mà ông Trump áp dụng cho Việt Nam, phản ứng của người Việt Nam ở trong nước phần lớn đều cảm thấy mức thuế suất đó cao quá và sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng một số người bình tĩnh hơn thì họ nghĩ đây là một cơ hội để cho Việt Nam định hình lại cấu trúc kinh tế trong nước, bớt đi xuất khẩu tài nguyên thô và chi phí nhân công giá rẻ, bởi vì thực sự trong một đơn vị sản phẩm xuất khẩu đi Mỹ, giá trị của phía Việt Nam không có nhiều, đó chỉ là chi phí nhân công thôi, còn giá trị sản phẩm là nằm trong sản phẩm của nước ngoài. Chẳng hạn như mình xuất đi một đôi giày Adidas hoặc một điện thoại thông minh Samsung, thì giá trị của Việt Nam trong đó nó đâu có bao nhiêu, toàn là giá trị của nước ngoài thôi. Thêm một vấn đề nữa, theo những nhà chuyên môn, đây cũng là một cơ hội cho Việt Nam bỏ đi cái gian lận trong xuất xứ, nói nôm na là mình xuất khẩu dùm cho Trung Quốc để bớt thuế. Một số ý kiến khác thì nghĩ rằng đây là cơ hội để mà cho Việt Nam mình thoát Trung. Lâu nay Việt Nam mình bị ảnh hưởng Trung Quốc nhiều quá. Nhưng nói chung, ở Việt Nam người ta cảm thấy lo lắng vì mức thuế đối ứng 46% này quá cao.” Giới kinh doanh "hoang mang" Về phần mình, luật sư Hoàng Cao Sang cũng nêu bật thái độ lo lắng của giới doanh nghiệp: “Cũng rất nhiều người bất ngờ với mức thuế của ông Donald Trump đối với Việt Nam. Người ta nghĩ rằng quan hệ giữa ông Trump và những các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng như là quan hệ giữa chính phủ Hoa Kỳ với chính phủ Việt Nam không đến nỗi căng thẳng như thế. Tuy nhiên, khi ông đánh thuế với mức thuế 46% như vậy, giới kinh doanh, doanh nghiệp hết sức là lo lắng, rất là lúng túng. Những dự án, những chương trình đã mua hàng xuất qua Mỹ mà bị áp thuế cao như vậy những doanh nghiệp Việt Nam rất lo lắng.” Tuy nhiên, theo ông Lê Quang Huy, sau cú sốc ban đầu, các doanh nghiệp Việt Nam nay cũng cảm thấy bớt lo lắng hơn về tác động từ thuế đối ứng của Mỹ: “Ngay khi nghe ông Trump đưa ra mức thuế suất đối ứng 46% thì đa phần ở Việt Nam người ta rất là lo lắng, vì sợ sẽ sụt giảm sản xuất và xuất khẩu, ảnh hưởng tới việc phát triển kế hoạch phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Nhưng sau một thời gian, sau những cam kết của chính phủ là sẽ tiến hành nhiều đợt đàm phán với phía chính phủ Mỹ và với các doanh nghiệp đối tác của Mỹ, để xin giảm bớt thuế suất đó. Đồng thời chính phủ kêu gọi các bộ ngành tăng cường ký kết thêm các FTA, các hiệp định thương mại tự do, với những thị trường tiềm năng, để giảm bớt gánh nặng về phía Mỹ. Rồi chính phủ cam kết hỗ trợ doanh nghiệp để xúc tiến thương mại, v.v.., nói chung là để không tạo nên một cú sốc quá lớn cho các doanh nghiệp đối với cái thuế suất 46%. Thành ra tôi cảm nhận rằng, khác với những ngày đầu, thời gian gần đây, các doanh nghiệp dần dần cũng bình tĩnh trở lại và trong thời gian tạm thời chưa áp dụng mức thuế suất cao đó, các doanh nghiệp cũng đang nghĩ ra những đối sách, những kế hoạch để tránh những thất lợi do việc áp thuế suất cao đó.” "Tính khí bất thường" của ông Trump Vấn đề đang được đặt ra đó là những chính sách cũng như cung cách lãnh đạo và tính khí bất thường của tổng thống Donald Trump đang khiến nhiều nước hoặc là e ngại, hoặc là xa lánh Hoa Kỳ, trong khi Trung Quốc đang lợi dụng tình hình này để tự khẳng định là một quốc gia “có trách nhiệm”, không chấp nhận những hành động hù dọa đơn phương trong thương mại. Do trùng hợp vào thời điểm, chuyến thăm Việt Nam của chủ tịch Tập Cận Bình vào giữa tháng 4, được dự trù từ lâu, đã diễn ra đúng vào lúc chiến tranh thuế quan do Trump phát động đang làm chao đảo cả thế giới. Trong bối cảnh này, liệu có nguy cơ Việt Nam bị lôi kéo về phía Trung Quốc hay không, ông Lê Quang Huy nhận định: “Tôi nghĩ là chuyện đó cũng khó xảy ra, bởi vì kinh nghiệm về những cái bẫy nợ do “Nhất đái, Nhất lộ” ( Một vành đai, Một con đường ) của Trung Quốc vừa qua đối với một số nước, ví dụ như ở Châu Phi hoặc là ở Nam Á vừa qua là một bài học kinh nghiệm. Thành ra nếu ông Trump mà làm quá mạnh tay với thuế suất đối ứng này, thì tôi cũng không nghĩ là Việt Nam sẽ ngã vào vòng tay của Trung Quốc đâu. Đương nhiên với đường lối ngoại giao cây tre thì chúng ta cũng phải làm như thế nào để không ngã về bên này và cũng không ngã quá bên kia.” Luật sự Hoàng Cao Sang cũng có ý kiến tương tự: “ Tôi theo dõi các nhà lãnh đạo Việt Nam thời gian vừa rồi thi thấy họ không có khái niệm sẽ gần Trung Quốc, mà họ đang có xu hướng thân những quốc gia phát triển, để mà từ đó đưa đất nước Việt Nam phát triển. Tuy nhiên, ở đây cũng có một rào cản. Khi ông Trump đánh thuế cao như vậy thì đương nhiên Việt Nam phải mở ra một thị trường mới. Không đi đường này được thì mình phải đi đường khác. Và có một nguyên tắc nữa mà người ta hay nói, đó là kẻ thù của kẻ thù là bạn ta. Tôi nghĩ rằng khi ông Donald Trump đánh thuế cao với EU, với Mêhicô, với Trung Quốc rồi với Canada, thì vô tình ông Trump đã tạo ra một mối quan hệ của những quốc gia đó lại với nhau. Vì sự sống còn của họ, họ cũng phải có một sự liên kết để xuất hàng hóa cũng như nhập hàng hóa để tránh tác động của ông Trump đến thị trường của Việt Nam, cũng như là thị trường của những quốc gia mà bị ông đánh thuế cao. Giữa Việt Nam với Trung Quốc thì mối quan hệ này đã có từ lâu rồi. Xét về mặt chính trị thì Trung Quốc với Việt Nam cùng một hệ thống chính trị. Còn xét về quan hệ thương mại hàng hóa, thì Việt Nam ngay cạnh Trung Quốc, cho nên hàng hóa từ biên giới Trung Quốc qua Việt Nam rất là nhiều và tôi cho rằng khoảng 70, 80% hàng hóa mà người Việt Nam sử dụng trong gia đình, trong mọi hoạt động thì xem như đều của Trung Quốc. Thời gian vừa rồi thì Việt Nam muốn mở rộng mối quan hệ qua các quốc gia khác, để việc xuất khẩu hàng của mình cũng như mối quan hệ về chính trị được cởi mở hơn. Tuy nhiên, tôi cho rằng đây là gần như là một cái gáo nước lạnh hắt vào mối quan hệ của Việt Nam, trong khi Việt Nam đang muốn mở rộng như vậy. Tất nhiên, khi cánh tay mình vươn qua bên kia không được, thì đương nhiên mình phải nối lại những cái mà mình đang có, để sự sống còn, sự phát triển của mình được tốt hơn.” Giới doanh nghiệp Việt Nam hiện đang trông ngóng kết quả đàm phán về thuế quan giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, bắt đầu vào ngày 23/04/2025, với cuộc điện đàm giữa bộ trưởng Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên với ông Jamieson Greer, Đại diện Thương mại của Nhà Trắng, Theo thông tin từ Vụ Phát triển Thị trường nước ngoài (bộ Công Thương), hai bên chỉ mới “thảo luận về những nguyên tắc cơ bản, phạm vi và lộ trình đàm phán”. Thời gian gấp rút vì việc áp thuế đối ứng chỉ được tạm hoãn trong 90 ngày.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 30/04 : Pháp và mối liên hệ với “Lực lượng thứ ba” ở miền Nam Việt Nam 16:01
16:01
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai16:01
Paris đã bí mật liên lạc với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngay từ năm 1965 về vấn đề thả con tin Pháp. Đối với Mặt trận, đây là cách để được công nhận ngoài phạm vi các nước cộng sản bạn hữu. Đối với Pháp, đây là bước đầu cho cuộc đối thoại có thể mang lại kết quả với một tân chính quyền ở Sài Gòn. Paris quan tâm đến “lực lượng thứ ba” trong chính giới miền Nam, cũng như trong cộng đồng người Việt tại Pháp và nội bộ Mặt trận. Chủ đề hiếm khi được nhắc đến được nhà ngoại giao Gérard Boivineau, nhân vật số 2 của Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam từ 1991-1994 và tổng lãnh sự Pháp tại thành phố Hồ Chí Minh từ 2008-2011, đề cập trong cuốn La Force introuvable (tạm dịch : Lực lượng khó tìm ), Vietnam 1965-1975 , sau ba năm nghiên cứu tài liệu lưu trữ của bộ Ngoại Giao Pháp. Ông dành cho RFI Tiếng Việt buổi phỏng vấn ngày 23/04/2025. RFI : Trong cuốn sách La Force introuvable (tạm dịch : Lực lượng khó tìm), ông nêu lên một chủ đề hiếm khi được đề cập. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Pháp nói chuyện với cả ba lực lượng ở Hà Nội, Sài Gòn và Mặt trận giải phóng miền nam Việt Nam, sau này là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Pháp tính toán gì vào thời kỳ đó ? Ông Gérard Boivineau : Thực ra Pháp không tính toán bất cứ điều gì. Pháp quan sát từ xa các sự kiện diễn ra ở Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh với Mỹ và việc Mỹ gia tăng can dự quân sự vào Việt Nam. Pháp lo cho số phận công dân của mình. Có khoảng hơn 10.000 người sinh sống ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam. Ngoài ra còn rất nhiều người sống ở nông thôn, chủ yếu ở Tây Nguyên và những khu vực không nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, mà dưới sự kiểm soát của lực lượng kháng chiến, thời điểm đó bắt đầu được gọi là Việt Cộng. Pháp muốn kín đáo biết làm thế nào để liên lạc với những đại diện có thẩm quyền của lực lượng đó, để cố gắng giải thoát những công dân bị Mặt trận bắt làm con tin, hoặc xem xét tổ chức tự do hoạt động thương mại, ví dụ cho các nhà phân phối bia hoặc chủ đồn điền trên cao nguyên. Và chúng ta biết rằng Mặt trận đã mở các đại diện bán ngoại giao ở các nước anh em hoặc bạn bè, đáng chú ý nhất là Tiệp Khắc vào thời điểm đó và Algérie. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Pháp và đại diện của Mặt trận đã diễn ra tại Alger (29/07/1965, trang 31) . Hai bên kết nối thành công vì Mặt trận cũng đang tìm cách hiện diện ngoài các nước cộng sản hay các nước anh em. Sáng kiến của Pháp được hoan nghênh phần nào. Mỗi bên đều có chương trình nghị sự riêng, như cách nói ngày nay. Pháp bận tâm đến số phận của những công dân trở thành nạn nhân bắt cóc hoặc tống tiền. Còn Mặt trận đang tìm cách mở rộng ra ngoài các nước cộng sản, sang các nước không trực tiếp tham gia vào cuộc xung đột, dù là về ý thức hệ hoặc hỗ trợ. RFI : Từ những cuộc tiếp xúc đầu tiên ở Alger, chính phủ Pháp và Mặt trận đã có nhiều cuộc tiếp xúc ở nhiều cấp độ trong những năm tiếp theo, tại Paris, Phnom Penh… Paris hỗ trợ gì cho Mặt trận ở Pháp ? Pháp trăn trở vấn đề gì ? Ông Gérard Boivineau : Điều thay đổi trong hành động ngoại giao, đó là lập trường được tướng De Gaulle khẳng định. Đặc biệt là trong bài phát biểu nổi tiếng tại Phnom Penh, tướng De Gaulle, lúc đó là tổng thống Pháp, công khai và thẳng thắn cho rằng Mỹ đã đi sai hướng. Theo ông, Hoa Kỳ leo thang quân sự là đi vào ngõ cụt. Tất nhiên lập trường của ông bị coi là lẻ loi trong phe phương Tây và không được hoan nghênh, nhưng dù sao đã cho phép ngành ngoại giao Pháp thiết lập mối liên hệ tự do hơn với Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Lúc đó Cam Bốt là một nước đồng minh với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc Việt Nam) và Mặt trận có một đại diện chính thức ở cấp rất cao tại thủ đô Phnom Penh. Các nhà lãnh đạo của Mặt trận có mặt ở Phnom Penh đã gặp các nhà ngoại giao Pháp, thậm chí là cả ngoại trưởng lúc đó tháp tùng tổng thống De Gaulle. Đó là điểm khởi đầu cho mối quan hệ ít phải che giấu hơn, tạm gác những quan ngại như lúc đàm phán ở Alger. Tuy nhiên, Paris vẫn chưa nhận được chấp thuận trả tự do cho những con tin Pháp. Nhưng dù sao cũng đã có một cuộc thảo luận ngoại giao với các nhà lãnh đạo Mặt trận. Lúc đó, Mặt trận đã xin phép và được chấp thuận để mở một Văn phòng báo chí tại Paris. Không ngờ rằng cơ quan báo chí này thực chất là một cơ quan của Mặt trận nhằm mục đích tăng cường ảnh hưởng của họ trong cộng đồng người Việt ở Pháp và dần dần hướng tới mục tiêu là được công nhận ngoại giao. RFI : Pháp cũng nói chuyện với với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, ra đời năm 1969 và được Mặt trận ủng hộ ? Ông Gérard Boivineau : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Mỹ cần khởi động tiến trình đàm phán (từ năm 1968) . Một số thủ đô đã được xem xét và cuối cùng Washington và Hà Nội cùng thỏa thuận chọn Paris. Các cuộc đàm phán dần dần được mở ra, rồi này sinh vấn đề nghi thức. Hai phái đoàn ở trong khu vực thuộc bộ Ngoại Giao, trên đại lộ Kléber (quận 16) nên còn được gọi là Hội nghị Kléber nhằm tái lập hòa bình. Phía Bắc Việt Nam yêu cầu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam được có mặt trong các cuộc đàm phán, dù phần nào chỉ ở bên lề. Từ đó, để được chú ý hơn, Mặt trận vẫn tiếp tục tồn tại nhưng song song đó đã quyết định thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Nói cách khác, những người đến Paris để làm đại diện cho Mặt trận thì tự động trở thành đại diện của chính quyền lâm thời miền Nam Việt Nam. Về phía Việt Nam Cộng Hòa, họ thấy có bên thứ ba tham gia hội nghị cho nên họ yêu cầu được tham gia vì có liên quan đến những gì diễn ra ở Việt Nam. Cuối cùng có 4 bên tham gia đàm phán. Tất nhiên, tất cả những chuyện này được thực hiện từng bước nhờ sự hỗ trợ của chính phủ Pháp, nhưng đó không phải là ý tưởng của Pháp. Chính phủ Pháp dần dần coi Chính phủ Cách mạng Lâm thời theo cách bán ngoại giao. Điều này giải thích cho các cuộc đàm phán vào thời điểm đó giữa một số nhà lãnh đạo của chính phủ lâm thời và bộ Ngoại Giao Pháp. Việc này kéo dài suốt thời gian diễn ra hội nghị hòa bình. RFI : Và cũng nhờ mối quan hệ phi chính thức với các bên, Pháp đã đóng vai trò trung gian đặc biệt cho việc giải quyết cuộc xung đột ? Ông Gérard Boivineau : Cũng không hẳn thế. Xin nhắc lại là Pháp không tính toán gì. Pháp chỉ lo tìm ra một giải pháp chính trị thỏa mãn tất cả các bên có mặt ở Paris. Nếu có một mục tiêu thì đó là duy trì ảnh hưởng kinh tế và văn hóa của Pháp ở miền Nam Việt Nam. Dĩ nhiên Pháp cũng không mong muốn một chính quyền cộng sản được thiết lập ở miền Nam, nhưng điều đó không hề được tính đến vào lúc đó. Nhờ nhiều lần tiếp xúc với Chính phủ Cách mạng Lâm thời trong khuôn khổ Hội nghị Hòa bình Kléber, Pháp đã nghe thấy người Việt Nam trong Chính phủ Lâm thời nói rằng “sự khác biệt giữa miền Bắc và miền Nam lớn đến mức mục tiêu thống nhất vẫn còn xa vời. Về nguyên tắc, chúng tôi khẳng định thống nhất đất nước, nhưng chúng tôi nhận thức được sự chênh lệch giữa hai miền Việt Nam. Thống nhất sẽ diễn ra một ngày nào đó, chỉ có thể là trong 10 hoặc 15 năm nữa”. Đây cũng là những con số do đại diện của Chính phủ Lâm thời đưa ra. Vì vậy, mục tiêu chính của Pháp không phải là tránh thiết lập một chế độ cộng sản ở Sài Gòn, vì họ biết rằng trong mọi trường hợp, ngay cả đối với những người phản đối cuộc chiến của Mỹ, đó là một mục tiêu. Nhưng mục tiêu đầu tiên là thiết lập hòa bình, cho phép tổ chức đàm phán với tất cả với những ai muốn thảo luận về hòa bình. Pháp không tính toán, nhưng có những tuyên bố rõ ràng rằng ,đối với Pháp, cần phải tránh để một chính quyền cộng sản hình thành trên toàn bộ Việt Nam. RFI : Tên của cuốn sách, tạm dịch là Lực lượng khó tìm , cũng làm liên tưởng đến Pháp, bởi vì Pháp đã cố gắng làm gì đó tránh để lực lượng Cộng sản nắm quyền trong chính phủ mới ở miền Nam, nhưng rút cuộc không thành ? Ông Gérard Boivineau : Pháp ở vị thế khá đặc biệt, là nước chủ nhà của Hội nghị Hòa bình. Ở đây cần phải nói sự việc theo đúng bản chất. Các cuộc đàm phán thật diễn một cách bí mật bên ngoài đại lộ Kléber, giữa Washington và Hà Nội, với sự đồng ý của chính phủ Pháp. Với tư cách là nước chủ nhà, Pháp không được đưa ra lập trường về bất cứ điều gì liên quan đến Hội nghị Hòa bình. Pháp lắng nghe bất kỳ bên nào muốn nói chuyện với họ. Chính quyền Sài Gòn tiếp xúc rất ít với Paris. Tôi không tìm thấy trong kho hồ sơ lưu trữ các báo cáo về cuộc họp giữa đại diện của Việt Nam Cộng Hòa với Quai d’Orsay (bộ Ngoại Giao). Ngược lại, Chính phủ Lâm thời họp ít nhất mỗi tuần một lần với phía Pháp, có thể thấy là thường xuyên, hết đại diện này đến đại diện khác. Đồng thời, cũng có nhiều cuộc thảo luận với phái đoàn miền Bắc Việt Nam, chưa phải là đại sứ quán vào thời điểm đó. Nhưng chủ yếu là với Chính phủ Lâm thời và bà Nguyễn Thị Bình. Bà được nhắc nhiều trong cuốn sách, tôi trích lại một số lượng lớn các cuộc thảo luận vào thời điểm đó giữa bà Bình với ngoại trưởng Pháp Maurice Schumann. Nhưng Paris không đưa ra sáng kiến về diễn biến của hội nghị. Vai trò của nước chủ nhà là tạo thuận lợi cho mọi việc về mặt nghi thức và tiến hành. Cho nên Pháp phần nào bị buộc phải lưu trữ thông tin, nhưng Pháp cũng phải thận trọng, đặc biệt là trong quan hệ với những đại diện của Chính phủ Lâm thời, luôn muốn nhiều hơn từ phía Pháp. Các thành viên của Chính phủ Lâm thời luôn cố gắng để có được sự công nhận chính thức nào đó, nhưng Pháp đã từ chối, viện dẫn sự trung lập của một nước chủ nhà. RFI : Tướng Dương Văn Minh, tổng thống Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng, dường như vẫn được gọi là “người của Pháp” (ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở Trường Sĩ quan Võ bị Quốc Gia Việt Nam do chính quyền Pháp tại Liên bang Đông Dương thành lập, từng tham gia Quân đội Thuộc địa Pháp) . Trong cuốn sách, ông cũng nói là “Minh đã để mất thời gian”. Liệu Pháp trông đợi gì đó vào tướng Dương Văn Minh ? Ông Gérard Boivineau : Không, tướng Dương Văn Minh không phải là người của Pháp, mà cũng không phải là người của Mỹ. Đơn giản là người ta không tìm được một chính trị gia ở miền Nam Việt Nam có thể đoàn kết thành các phần chính trị, gồm những người phản đối chế độ Nguyễn Văn Thiệu nhưng cũng không ủng hộ Cộng sản. Người ta gọi thành phần này là “trung lập” hoặc “dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản”. Lực lượng này được thể hiện rất rõ ở Paris lẫn ở Sài Gòn. Báo chí Sài Gòn lúc đó tương đối tự do, nghĩa là một tờ báo chống tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị đóng cửa thì tờ báo đó sẽ được tái sinh dưới một tên khác. Tiếp theo, có nhiều dân biểu phản đối ông Thiệu. Nhờ phần nào được bảo vệ bởi quyền miễn trừ đại biểu Quốc Hội, họ có thể tự do bày tỏ ý kiến mà không sợ bị bỏ tù, hoặc bị buộc tội là thân cộng sản. Nhiều người trong số họ thậm chí đến Paris để gặp cộng đồng người Việt. Lúc đó, người Việt ở Paris được cả Chính phủ Lâm thời và bộ phận theo khuynh hướng chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản lấy lòng. Nhưng thành phần “trung lập” hoặc “dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản” ở Sài Gòn cũng như ở Paris có đặc điểm là phân mảnh, khác biệt, thiếu gắn kết, thậm chí có xu hướng không tự tổ chức. Trong số những nhân vật có khả năng một ngày nào đó sẽ lên nắm quyền, thay thế Nguyễn Văn Thiệu có Dương Văn Minh. Tướng Minh được nể trọng vì có vai trò trong sự sụp đổ của chế độ tổng thống Ngô Đình Diệm. Sau đó, ông phản đối một số tướng lĩnh cũng tham gia đảo chính và bị buộc sống lưu vong ở Thái Lan. Nhờ vậy ông thoát được thời kỳ đầy rẫy xung đột giữa các tướng lĩnh, tham nhũng… Ông trở về Việt Nam với danh tiếng là một người chính trực, không tham nhũng, tránh bị tiếng được thiên vị. Ông ra tranh cử tổng thống với ông Thiệu năm 1971. Nhưng phía Mỹ lại có vẻ thiếu khéo léo, thực sự là không biết tại sao. Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đã có một cuộc họp với tướng Minh và sau cuộc họp, ông Minh có cảm giác rằng người Mỹ có lẽ đang chế giễu ông và muốn hối thúc ông ra ứng cử tổng thống để tạo vẻ ngoài dân chủ ở miền Nam Việt Nam. Đại sứ Mỹ thậm chí còn đề nghị tài trợ cho chiến dịch của ông. Thế là quá đủ ! Tướng Minh cảm thấy bị gài bẫy. Và để tránh bị sập bẫy, ông ấy đã rút lui. Ngoài ra còn có một ứng cử viên thứ ba là Nguyễn Cao Kỳ, phó tổng thống và ủng hộ tổng thống Thiệu. Tuy nhiên, tư cách ứng cử của ông đã bị hủy trong hoàn cảnh khá mơ hồ. Ông Thiệu trở thành ứng cử viên duy nhất và tất nhiên là đã thắng cử. Nhiều người có thể đã tiếc là nếu ông Dương Văn Minh tiếp tục tranh cử, có lẽ sẽ biết được bao nhiêu phần trăm người dân ủng hộ ông, cho dù có rất ít cơ hội chiến thắng, nhưng dù sao thì cũng đáng thử. Sau đó, ông Dương Văn Minh cũng có những phát biểu sau khi Hiệp định Paris được ký vào tháng 01/1973. Còn tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận Hiệp định Paris và ông làm mọi cách để các điều khoản không được áp dụng, nhất là sự xuất hiện của “lực lượng thứ ba” - tôi dùng đúng các từ ngữ trong Hiệp định Paris năm 1973. Tổng thống Thiệu muốn “lực lượng thứ ba” này không bao giờ được hình thành và tồn tại. Ông cũng từ chối thả tù chính trị, tiếp tục chính sách độc tài chống lại những người đối lập. Miền Bắc Việt Nam cho rằng không còn giải pháp nào khác để đạt được mục tiêu thống nhất đất nước ngoài biện pháp quân sự. Năm 1974, một năm sau Hiệp định Paris, họ bắt đầu một số cuộc tấn công để thử sức kháng cự của chính quyền Sài Gòn, nhưng trên hết là để chắc chắn rằng Mỹ sẽ không can thiệp. RFI : Pháp là một trong ba nước duy nhất duy trì đại sứ quán ngay sau ngày 30/04/1975. Liệu đây có phải là một thành công cho hoạt động ngoại giao của Pháp ? Pháp duy trì liên lạc với chính quyền mới ở Việt Nam sau ngày này như thế nào ? Ông Gérard Boivineau : Đối thoại chưa bao giờ ngừng giữa Paris và Hà Nội. Pháp có một đại diện toàn quyền Pierre Susini, không may là ông bị thiệt mạng trong một cuộc không kích của Mỹ năm 1972. Nhưng sau Hiệp định Paris 1973, Pháp đã thiết lập quan hệ ngoại giao : Cơ quan tổng đại diện trở thành đại sứ quán, một đại sứ được bổ nhiệm ở Hà Nội và tổng lãnh sự quán đặt tại Sài Gòn, do trước đó không còn vì quan hệ ngoại giao bị gián đoạn bởi chính quyền của thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ lúc bấy giờ. Nói tóm lại, Pháp có đại diện ở Sài Gòn cũng như ở Hà Nội và đối thoại được tiếp tục ở cả miền Bắc, Nam. Vào cuối tháng 03/1975, người ta thấy rằng Hiệp định Paris không được thực hiện. Quân đội miền Bắc Việt Nam bắt đầu tấn công và đạt được thành công, chiếm lại thành phố Đà Nẵng và vùng cao nguyên. Còn quân đội, thực sự là không biết đó là quân đội Bắc Việt hay của Chính phủ Lâm thời, hướng xuống miền nam, tiến về Sài Gòn, giành nhiều thắng lợi nhưng cũng có thất bại. Vào cuối tháng 03/1975, Pháp quyết định bổ nhiệm một đại diện ngoại giao (ông Michel Huriet) bên cạnh Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, tạm đóng trong khuôn viên đại sứ quán Pháp ở Hà Nội, nhưng không phải là thành viên của đại sứ quán và có quyền tự chủ riêng. Lúc đầu, người này được giới thiệu là đứng đầu một phái đoàn đại diện, sau đó ông trở thành đại biện. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là trình quốc thư, không phải với chủ tịch của Chính phủ Lâm thời, mà là với ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình. Ông ở lại Hà Nội suốt tháng 04 và 05/1975, rồi dần dần nhận ra rằng ông sẽ không bao giờ được gặp ai nữa. Và cuối cùng là đại sứ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - miền Bắc Việt Nam - cũng được bổ nhiệm làm đại sứ Chính phủ Lâm thời. Tất cả diễn ra vào năm 1975, và tiến triển rất nhanh. Lúc đó, người ta bắt đầu nói về việc thống nhất đất nước sớm. Đại sứ Pháp có mặt ngày 30/04/1975 ở Sài Gòn nghĩ rằng ông sẽ tiếp tục là đại sứ bên cạnh chính quyền mới ở miền Nam Việt Nam, ngay cả khi không phải là tổng thống Dương Văn Minh nữa, vì chính phủ của ông được thành lập ngày 28/04 đã bị lật đổ ngày 30/04. Pháp không biết phải liên lạc với ai. Lúc đó, phía Việt Nam phụ trách ở Sài Gòn là một ủy ban quân quản do tướng Trần Văn Trà đứng đầu và ông không có mối quan hệ với bất kỳ ai. Sau ngày 30/04/1975, ở Sài Gòn chỉ còn ba cơ quan đại diện hoạt động : Bỉ, Thụy Sĩ với một đại biện lâm thời và khâm sứ Tòa Thánh. Tuy nhiên, khâm sứ Tòa Thánh đã phải rời Sài Gòn vào tháng 08/1975. Nhưng Pháp vẫn có một đại sứ, một nhân vật số 2, một nhân vật số 3, một cơ cấu chính trị nhưng lại không gặp được ai, trong khi người ta biết rõ rằng ngay từ đầu đã có một bộ phận trong chính phủ hoạt động, đó là bộ Ngoại Giao, không phải với bà Nguyễn Thị Bình vì bà tiếp tục đi khắp thế giới để ký các thỏa thuận cung cấp hydrocarbon, mà với nhân vật số 2. Đối với chính quyền mới tại Sài Gòn, đại sứ quán Pháp không tồn tại và họ chỉ trao đổi với đại sứ quán Pháp về các vấn đề hành chính và lãnh sự, bởi vì vẫn có đến 10.000 người Pháp sống ở Sài Gòn. Chỉ ở điểm này Pháp mới có người đối thoại và chỉ hoàn toàn về vấn đề lãnh sự và hành chính. Nói tóm lại, trước khi chính quyền tướng Minh bị lật đổ, Pháp có ba cơ quan đại diện ở Việt Nam : một đại sứ quán ở Sài Gòn, một đại sứ quán ở Hà Nội và một đại diện có địa vị ngoại giao thấp hơn đại sứ tại chính phủ lâm thời. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ông Gérard Boivineau, nhân vật số 2 của Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam từ 1991-1994 và tổng lãnh sự Pháp tại thành phố Hồ Chí Minh từ 2008-2011.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Anh và giải pháp công nhận hai nước Việt Nam sau Hòa đàm Paris 1973 8:45
8:45
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai8:45
Dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh, thống nhất Việt Nam (1975-2025), là thời điểm tốt để đánh giá lại vai trò của Anh trong 10 năm cuối cùng của “The Vietnam War”. Khi đó Anh tiếp tục đóng vai trò giám sát ở cương vị nước đồng chủ tịch (cùng Liên Xô) của Hội nghị quốc tế Geneva 1954. Khác Hoa Kỳ, Anh quốc sau Hòa đàm Paris đã công nhận cả hai nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNNDCCH) và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), trong khi Mỹ sau khi rút khỏi Nam Việt Nam thì phải đến 1995 mới bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam thống nhất. Nhà báo Nguyễn Giang ở Luân Đôn, thông tín viên đài RFI tiếng Việt, đã nghiên cứu chủ đề này. RFI : Bối cảnh lịch sử nào khiến Anh bước chân vào Đông Dương? TTV Nguyễn Giang : Câu chuyện ngày nay ít người nói tới là quân đội Anh có một cuộc chiến ở Nam Bộ cuối năm 1945 sang đầu năm 1946, khi phong trào giành độc lập của Việt Minh và các đảng phái, tổ chức khác lên cao nhằm đòi chủ quyền cho Việt Nam sau hơn 80 năm Pháp cai trị. Tôi tìm hiểu tài liệu do T.O. Smith công bố ở Đại học East Anglia thì được biết là sau Hội nghị Potsdam tháng 7/1945, tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ, tướng George C. Marshall đã yêu cầu tư lệnh người Anh của Quân Đồng minh tại Đông Nam Á, đô đốc Louis Mountbatten, tiếp quản khu vực phía Nam đường vĩ tuyến 16 chia đôi Đông Dương. Thế nhưng, Anh tham gia vào việc giải giáp quân đội Nhật một cách miễn cưỡng và không muốn dính líu sâu vào Đông Dương. Cùng lúc, các chính trị gia bị tác động bởi quan điểm chủ đạo của bộ Ngoại Giao Anh (Foreign Office) về tình hình châu Âu hậu chiến, rằng "một nước Pháp mạnh tại châu Âu sẽ giúp cho an ninh của Anh". Nhưng một nước Pháp ở châu Âu đã là nước thua trận, đầu hàng phát-xít Đức và chỉ có lực lượng Pháp Tự do của tướng De Gaulle lưu vong tại Anh là có một góc ở chiếc bàn của phe thắng trận. Tôi đã tới thăm bảo tàng nhỏ ở London nơi có tượng tướng de Gaulle và là trụ sở của phe Pháp Tự do dựa vào Đồng minh Anh-Mỹ để phục quốc từ tháng 06/1940 đến tháng 06/1944, sau khi Paris được giải phóng thì ông de Gaulle trở về Pháp. Văn phòng rất nhỏ và các sĩ quan Pháp thường chọn một quán bia ở trung tâm London để họp hành, bởi gọi là chính phủ kháng chiến nhưng thực ra họ không có cơ sở gì nhiều. Giai đoạn hậu chiến đó, nước Pháp cần hùng mạnh trở lại và theo Charles de Gaulle, thì nước Pháp phải giành lại Đông Dương đã thuộc về tay phát-xít Nhật và chính quyền Vichy. Với tâm lý mâu thuẫn đó trong việc ủng hộ Pháp hay là không, sư đoàn Anh-Ấn do tướng Douglas Gracey (1894 - 1964) chỉ huy đã tới Nam Bộ từ tháng 9/1945 đến tháng 5/1946. Ngày 27/12/1945 tại Sài Gòn, tướng Gracey, trong một buổi lễ đầy tính biểu tượng, đã trao thanh kiếm danh dự cho nữ công dân Pháp Suzi Pinel, thành viên của Lực lượng Pháp Tự do hoạt động bí mật chống Nhật ở Đông Dương trong Thế Chiến 2. Các Pháp kiều sau đó đã tự tổ chức lại và phần nào được Anh hỗ trợ để đánh lại Việt Minh. Đã có các cuộc giao tranh giữa quân Anh và Việt Minh. RFI : Cuối cùng thì người Anh đã rút đi và trao lại Nam Bộ cho Pháp, khiến cuộc kháng chiến của người Việt Nam chống Pháp bùng nổ ? Và thái độ của nước Anh ra sao? TTV Nguyễn Giang : Có thể nói là các sĩ quan chỉ huy của Anh ở Sài Gòn sống trong tâm lý giằng co giữa quyền lợi “thực dân đế quốc” truyền thống của người châu Âu, tức là họ hỗ trợ Pháp kiều một cách tự nhiên, và thái độ muốn tỏ ra công bằng (fair play) với người dân và các chính thể mới thoát ra từ chủ nghĩa thực dân hậu chiến để kiến thiết nền độc lập còn non trẻ của họ . Có câu chuyện là các sĩ quan Anh đã làm lễ mai táng rất trọng thị cho tiểu đội các chiến sĩ Việt Minh tử trận để bảo vệ Cột cờ Thủ Ngữ (23/09/1945). Người sĩ quan Anh ra lệnh cho đại đội của ông ta xếp hàng, bồng súng chào hương hồn những người anh hùng của đối phương đã ngã xuống dưới chân cột cờ. Quân Anh rút đi sau khi bàn giao lại Sài Gòn cho quân Pháp vào mùa Xuân 1946. RFI : Khi bước vào Chiến tranh Lạnh, Anh quốc có vai trò gì và giữ quan điểm ra sao với Việt Nam? TTV Nguyễn Giang : Khi cuộc Kháng chiến chống Pháp của người Việt Nam kết thúc thắng lợi, nhờ có vai trò ở Hội đồng Bảo an LHQ sau Thế chiến II, Anh tham gia Hòa đàm Geneva (1954) và có vai trò đồng chủ tịch (co-chairman) cùng Liên Xô. Bởi vậy, London sau khi công nhận VNCH vẫn có một cơ quan lãnh sự tại Hà Nội và là quốc gia châu Âu duy nhất có thể tác động tới Hoa Kỳ trong chính sách của Washington ở Đông Dương những năm sau đó. Điều này được xác nhận bởi các tài liệu giải mật sau này, cho thấy vào những thời điểm quan trọng nhất của Mỹ ở Nam Việt Nam, lãnh đạo Mỹ “chỉ còn có hai đồng minh đáng tin cậy là Anh và Úc” - theo lời phó tổng thống Hubert Humphrey nói với thủ tướng Anh Harold Wilson vào tháng 4/1967. Nước Pháp, với thái độ bài Mỹ khá công khai của tổng thống Charles de Gaulle, thì hoàn toàn không được hoan nghênh trong chính giới Washington. RFI : Quan điểm của London có thay đổi gì không khi chiến sự diễn ra ác liệt ở Nam Việt Nam? Và nhất là sau khi Hoa Kỳ quyết định đổ quân vào tham chiến để bảo vệ VNCH. TTV Nguyễn Giang : Ngay khi Hoa Kỳ đổ quân vào Nam Việt Nam ngày 08/03/1965, giới chức ngoại giao Anh đã bắt đầu nhận thấy đồng minh Hoa Kỳ không thể thắng ở Nam Việt Nam và kín đáo chia sẻ quan điểm về cuộc chiến “unwinnable” trong nội bộ chính quyền Anh. Các tài liệu giải mật - trích theo nhà nghiên cứu Mark Curtis - cho hay ngay từ khi đó, Anh đã tiếp cận Liên Xô để bàn về một giải pháp như Hiệp định Geneva 1954 cho vấn đề Việt Nam. Giải pháp này dự tính yêu cầu quân đội nước ngoài rút khỏi Nam Việt Nam và tổ chức bầu cử tự do ở đó, còn miền Bắc sẽ phải trung lập hóa. Cách ứng xử của Anh trong các năm tiếp theo là ủng hộ Mỹ bề ngoại nhưng cũng tìm cách cho người Mỹ thấy “lối thoát” khỏi chiến trường Nam Việt Nam. Cùng lúc, giới an ninh và quân đội Anh vẫn đóng vai trò phụ trợ cho quân đội Hoa Kỳ ở Đông Dương, gồm cả việc cung cấp tin tình báo phục vụ không quân Mỹ từ trạm thông tin đóng ở Hồng Kông (khi đó vẫn thuộc Anh). Sau giai đoạn thủ tướng Anh Harold Wilson làm việc với tổng thống Mỹ Lyndon Johnson, tân chính phủ của Edward Heath năm 1970 phải làm việc với tổng thống Richard Nixon. Ở nhiệm kỳ này, chính phủ của ông Heath ủng hộ công khai hơn một giải pháp “rút lui danh dự cho người Mỹ” khỏi Nam Việt Nam, như lời ông nói trên truyền hình Mỹ CBS vào tháng 12 năm đó. RFI : Xin anh cho biết là cuối cùng Anh đi đến giải pháp công nhận cả hai chính thể ở hai miền Nam - Bắc VN như thế nào? TTV Nguyễn Giang : Các tài liệu nay đã giải mật nói rằng sang năm 1972, Anh tích cực hơn trong việc tiếp xúc với VNDCCH ở cấp cao, tuy không phải là cấp cao nhất. Có vẻ Anh thay đổi thái độ, dấn vào các vấn đề châu Á liên quan đến Trung Quốc và Miền Bắc VN nhiều hơn sau khi vào tháng 02/1972, Chu Ân Lai và Richard Nixon tung ra Thông cáo chung Thượng Hải, tạo bước ngoặt địa chính trị lớn trong cục diện Chiến tranh Lạnh ở châu Á. Ngay vào tháng 06/1972, ngoại trưởng Anh Anthony Royle thực hiện gần một chuyến thăm quan trọng sang Trung Quốc. Việc tham vấn hoặc trao đổi với Đại sứ quán Anh tại Bắc Kinh về chiến tranh tại Đông Dương được thực hiện và các nhà ngoại giao Anh tại Bắc Kinh cùng các nhà ngoại giao VNDCCH đã gặp gỡ. Đây là thời kỳ chính phủ của ông Edward Heath bị giằng co giữa quan hệ Anh - Mỹ, nhu cầu gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC - tiền thân của EU) và phần dư luận phản chiến khá mạnh mẽ ở trong nước. Tuy thế, về ngoại giao, với vị thế đặc biệt của mình, Anh tiến tới giải pháp công nhận cả hai nước Việt Nam. Ngày 17/07/1973, đề xuất "công nhận Bắc Việt Nam" được đưa ra thảo luận tại Quốc hội Anh ở Điện Westminster. Các hồ sơ về sự kiện này vẫn giữ trên trang lưu trữ (Hansard archive- Volume 860 debate-North Vietnam ) tại Nghị viện Anh và ghi lại các đoạn trả lời của Ngoại trưởng Anthony Royle đáp trả chất vấn của các nghị sĩ : "Đại sứ quán của chúng ta ở Bắc Kinh đã đề nghị với Đại sứ quán của VNDCCH cuộc thảo luận theo hướng để thiết lập quan hệ ngoại giao. Nay, chúng tôi công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô ở Hà Nội và lãnh thổ nằm ở phía bắc đường phi quân sự theo Hiệp định Geneva 1954 [vĩ tuyến 17-BBC]. Chúng ta vẫn tiếp tục công nhận Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, với thủ đô ở Sài Gòn, là chính quyền hợp pháp duy nhất của Nam Việt Nam, với lãnh thổ nằm phía Nam đường giới tuyến tạm thời đó." Anh có vẻ cố duy trì quan điểm hình thành từ năm 1954, mà không muốn thấy sự thay đổi cán cân lực lượng trên chiến trường đã nghiêng hẳn về VNDCCH và lực lượng Mặt trận. Đây là lý do London công nhận cả hai nước Việt Nam, trong khi vẫn coi đường phân định Nam-Bắc chỉ là tạm thời, " provisional military demarcation line ", theo đúng Hiệp định Geneva. Như thế, quan điểm của Anh khác các nước XHCN ở Đông Âu khi đó, bởi vì họ, cùng Liên Xô, công nhận VNDCCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam nhưng không công nhận VNCH. Còn Mỹ thì không công nhận VNDCCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam cho đến 1975, và chỉ lập quan hệ ngoại giao với nước VN thống nhất vào năm 1995, sau Anh rất lâu. Có thể để làm vừa lòng Hoa Kỳ, bộ Ngoại Giao Anh nêu quan điểm vào ngày 17/07/1973, "sẽ không công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam". Năm 1975, ông Stewart trở lại Hà Nội ở cương vị Đại sứ Vương quốc Anh đầu tiên ở nước Việt Nam thống nhất. Quan hệ Anh-Việt bước sang một thời kỳ mới.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam : « Đồng minh » của Mỹ, người trong cuộc nghĩ gì ? 14:44
14:44
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai14:44
« Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ nhưng làm bạn với họ thì thật là khó » bởi vì « chính sách của Hoa Kỳ nay thế này mai thế khác (...) » . Tâm sự này của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu vào thời điểm năm 1975/1976 làm mọi người nhớ đến một trong những nhà ngoại giao lỗi lạc nhất của Mỹ với câu nói để đời : « Làm kẻ thù của Mỹ có thể nguy hiểm. Làm bạn với Mỹ là mối nguy hiểm chết người ». Nhân kỷ niệm 50 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam, RFI Tiếng Việt mời giáo sư tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng trở lại với sự kiện Ngày 30 tháng 4 năm 1975. Là một chuyên gia kinh tế, ông từng giảng dạy tại nhiều đại học danh tiếng ở Hoa Kỳ trước và sau năm 1975, nguyên là kinh tế gia của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Trong nửa đầu thập niên 1970, giáo sư Nguyễn Tiến Hưng là phụ tá của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phụ trách Tái Thiết và đứng đầu bộ Kế Hoạch và Phát Triển. Là người trong cuộc, nhân chứng hàng đầu trong một giai đoạn lịch sử của Việt Nam ở thế kỷ 20, giáo sư Hưng đã ra mắt độc giả nhiều tác phẩm về giai đoạn này 1 . Mùa xuân năm 2024, ông đã cho phát hành cuốn « Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm » - Nhà xuất bản Hứa Chấn Minh. ***** RFI : Xin kính chào giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Cảm ơn ông nhận trả lời Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp. Trước hết, xin giáo sư kể lại một kỷ niệm của Ngày 30 tháng 4 năm 1975. GS Nguyễn Tiến Hưng : Vâng thưa cô Thanh Hà, ngày 30/04/1975 tôi đang có mặt ngay tại thủ đô Washington nhờ một cơ duyên lịch sử tôi đã được chứng kiến toàn bộ tiến trình của cuộc chiến Việt Nam. Cuộc chiến này bắt đầu khi tổng thống John F. Kennedy quyết định dấn thân vào Việt Nam và viết thư cho tổng thống Ngô Đình Diệm là « Hoa Kỳ sẵn sàng tiếp tay với Việt Nam Cộng Hòa, tăng cường nỗ lực chiến đấu. Phải chiến đấu thắng Cộng sản ». Hôm ấy là ngày 11/05/1961. Cho đến khi nghe tổng thống Gerald Ford tuyên bố : « Đối với nước Mỹ, cuộc chiến Việt Nam đã xong rồi. Ta hãy quên đi quá khứ và nhìn về tương lai ». Hôm đó là ngày 27/04/1975. Rồi ba ngày sau ông im lặng nhìn Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Ngày 30 tháng 4 là ngày dài nhất và đau lòng nhất trong đời tôi : Dài nhất vì tôi đã thức trắng đêm 29 để chuẩn bị cho cuộc họp báo ngày 30 tháng 4. Đau lòng nhất vì tôi không những nhìn thấy sự bi thương của đồng bào miền Nam đang bị bỏ rơi mà còn cảm giác cay đắng về sự phản bội của đồng minh, từng được xem là đồng minh chiến lược. RFI : Vì sao giáo sư đã có mặt tại Washington trong những ngày 29 và 30 tháng 4 ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Về nhiệm vụ của tôi Ngày 30 tháng 4, bối cảnh là như thế này : Ngày 19/04/1975, Quốc Hội Mỹ dự trù biểu quyết để xem có tiếp tục viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa nữa hay không. Tin tức Dinh Độc Lập có được thì rất là tuyệt vọng. Ngày 14 tháng 4, tức là chỉ hai tuần trước khi Sài Gòn sụp đổ, tổng thống Thiệu chỉ thị tôi phải đi ngay Washington cùng với ngoại trưởng Vương Văn Bắc và đại sứ Trần Kim Phượng. Chúng tôi phải đưa ra một giải pháp tức là yêu cầu Mỹ cho vay ba tỷ đô la trong 3 năm, rồi chúng tôi sẽ hoàn lại hết. Mục đích của giải pháp này là để Quốc Hội Mỹ đừng quyết định ngừng viện trợ cho miền Nam Việt Nam và tuyên bố cho cả thế giới biết vào ngày 19/04/1975. Tôi lên máy bay sáng sớm ngày 15/04/1975 tại Tân Sơn Nhất. Sang đến Washington thì Quốc Hội đã hành động xong rồi. Rất là đau đớn. Tôi liền thay đổi mục tiêu và hướng đến việc kêu gọi cứu vớt đoàn người tị nạn đang túa ra Biển Đông. Sau đó thì Quốc Hội cấp một khoản tiền 455 triệu đô la để tài trợ cho chương trình định cư. RFI : Trong cuốn sách giáo sư cho ra mắt bạn đọc mùa xuân 2024, « Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm », do thời gian có hạn nên xin phép tập trung vào phần 2 của cuốn sách : Một Kế Sách, tám thủ đoạn. Giáo sư giải thích Henry Kissinger, người sau này trở thành ngoại trưởng Hoa Kỳ và có lúc kiêm nhiệm luôn cả chức Cố Vấn An Ninh Quốc Gia dưới 2 thời tổng thống Nixon và Ford, « ít nhất là đã hình thành kế sách Decent Interval từ năm 1967 » (tr.141). Thưa ông chiến lược đó là gì ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Tựa đề Bức tử Việt Nam Cộng Hòa, tôi nghĩ là đã nói lên tất cả rồi. Cuốn sách là một lời cáo trạng lịch sử dựa trên Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập mà tôi rất may mắn còn giữ được. Vì nếu mà tôi không giữ được hồ sơ đó thì không ai biết được chuyện Việt Nam Cộng Hòa kết thúc như thế nào, vì Kissinger đã giấu đi hết. Chiến lược Decent Interval của ông ấy là làm thế nào để có một « Khoảng thời gian coi cho được », để khỏi mất danh dự : Kissinger quan niệm Mỹ không thể nào chiến thắng ở cuộc chiến Việt Nam, bởi đây là một cuộc chiến du kích mà Mỹ thì không quen với chiến tranh du kích : Thế Chiến Thứ Nhất, Thế Chiến Thứ Hai, Chiến Tranh Triều Tiên đều là chiến tranh quy ước. Thành thử Henry Kissinger đã nghĩ ra chiêu bài Decent Interval : miễn là làm sao có được một khoảng thời gian - như là độ vài năm, từ khi Mỹ rút lui khỏi miền Nam cho đến khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Vì như vậy không mang tiếng là bỏ rơi đồng minh. Để thi hành chiến được đó, Kissinger phải dùng đến thủ đoạn. Ông ấy đã nghĩ rằng chỉ còn cách là đạt được một hiệp định : Hiệp Định Paris cho phép nước Mỹ « ra đi » một cách danh chính ngôn thuận. Ông Kissinger cố gắng hết sức trong bí mật điều đình với Miền Bắc để Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27/01/1973. Tôi đang trả lời phỏng vấn với đài RFI bên Paris, thì cái chữ Paris nó dính liền với óc tôi rất là sâu đậm vì Hiệp Định Paris và trước đó nữa thì cũng đã có những sự kiện về chiến tranh Việt Nam cũng xảy ra ở Paris . ‘Kissinger nói với TT Nixon rằng bỏ Miền Nam Việt Nam sẽ chẳng ảnh hưởng gì tới chính sách ngoại giao của Mỹ ! (tr.194) RFI : Như tựa đề phần 2 trong cuốn sách Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm, tám thủ đoạn đó gồm Dối gạt tổng thống Nixon, Nhân danh ông Nixon gây áp lực với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Vẽ một kế hoạch tối mật để thuyết phục đồng minh là Việt Nam Cộng Hòa, Tung hỏa mù Quốc Hội Mỹ, Che mắt luôn cả tổng thống Ford… Nhưng theo giáo sư trong số này, thủ đoạn nào là nham hiểm nhất ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Có lẽ thủ đoạn nham hiểm nhất là lừa dối tổng thống Nixon. Khi Nixon lên cầm quyền tháng 1/1969, ông đã hứa sẽ đem lại một giải pháp hòa bình cho Việt Nam – Vừa hòa bình vừa danh dự, chứ không phải là một cái hiệp định để che giấu sự thất bại. Thế nhưng Kissinger « giỏi » lắm. Ông ấy « tài ba » lắm : Kissinger đã che đậy thất bại của ông ấy sau 4 năm hòa đàm. Tổng thống Nixon thì không tin vào đàm phán mà chỉ tin vào chương trình mà ông gọi là « Việt Nam hóa » tức là giúp cho miền Nam tự lực tự cường để một mình có thể chiến đấu được, tồn tại được. Kissinger thì ngược lại : ông ấy không tin vào giải pháp Việt Nam hóa của Nixon và đã thuyết phục tổng thống rằng tại sao chủ trương Việt Nam hóa sẽ không thành công. Theo Kissinger, « mấy người lính Việt Nam thì làm sao mà đánh lại được như là người Mỹ mà Hoa Kỳ đã huy động đến nửa triệu lính Mỹ còn không ăn thua » . Trong hoàn cảnh đó, tổng thống Nixon cứ để cho ông Kissinger tiến hành đàm phán và đại khái là ông ấy đã đánh lừa được tổng thống Nixon. Kissinger thuyết phục được Nixon là hiệp định này (Hiệp Định Paris) có lợi cho miền Nam chứ không phải là có hại cho miền Nam. Câu hỏi là tại sao ông Nixon, một chính trị gia cáo già mà lại có thể tin được như vậy. Cái chuyện đó là như thế này và đã được chính tổng thống Nixon viết lại trong hồi ký của ông : Kissinger cứ báo cáo với tổng thống rằng Hiệp Định Paris « C hỉ là một phương cách để cho Bắc Việt giữ được thể diện thôi, chứ còn họ (Hà Nội) đã nhượng bộ hết rồi, không có gì cả » . Thì cái nham hiểm nhất ở đây là đánh lừa Nixon. Mà dù Nixon là cáo già chính trị cũng đã tin, vì ông Kissinger quá tài ba mà tổng thống Nixon thì lại lơ là không để ý đến đàm phán. Sau Nixon, một nguy hiểm khác là Henry Kissinger cũng đã giấu tổng thống Ford khi mà ông Ford lên thay thế tổng thống Nixon ngày 08/08/1974 (ngày mà mà tôi gọi là ngày Song Bát). Ông Ford không biết gì hết. Một ngày sau khi nhậm chức (09/08/1974) tổng thống Ford viết thư cho tổng thống Thiệu và cam kết « Tất cả những gì mà nước tôi đã hứa hẹn thì sẽ được hoàn toàn tiếp tục và sẽ được tuân thủ trong nhiệm kỳ của tôi » RFI : Ngày 30 tháng Tư là hồi kết của chế độ Sài Gòn, với những hệ quả mà ai cũng biết. Nhưng đây cũng là một cột mốc quan trọng đối với hình ảnh và uy tín của Hoa Kỳ trong bang giao quốc tế … GS Nguyễn Tiến Hưng : Đúng như vậy. Hậu quả của chiến tranh Việt Nam đối với Mỹ còn kéo dài cho đến ngày hôm nay. Thứ nhất, bạn bè đồng minh của Mỹ không còn dám tin cậy vào Mỹ. Đồng minh khắp nơi đều dè dặt khi phải hợp tác với Hoa Kỳ vì sợ rằng lại trở thành Việt Nam Cộng Hòa thứ hai. Điểm thứ nhì – và đây mới là điều quan trọng : Kẻ thù thì coi thường nước Mỹ. Sau cuộc chiến Việt Nam 1975, thì đến cuộc Cách Mạng Iran năm 1979. Iran bắt toàn bộ nhân viên của tòa đại sứ Mỹ tại Teheran, rồi đối đầu với Mỹ cho đến ngày hôm nay. Sau Iran đến Irak cũng tại Trung Đông. Tổng thống Irak Saddam Hussein đã xem thường Mỹ khi nói « Một nửa triệu quân ở Việt Nam còn chẳng làm gì được mà bây giờ còn bày đặt sang Irak để chiến đấu. Irak không phải là cái chỗ để đi picnic ! » Thời tổng thống Bush - hình như là năm 2001 hay 2002 gì đấy, đã tiết lộ, tình báo Mỹ CIA đã chặn được lệnh của Ayman Al Zawahiri (nhân vật số 2 tổ chức Al Qaeda tại Afghanistan) cho cấp dưới của ông ấy rằng : « Những hậu quả của sự sụp đổ của Hoa Kỳ tại Việt Nam, việc họ bỏ chạy và bỏ rơi những người đã theo họ làm cho chúng ta nên suy nghĩ. Ta phải sẵn sàng ngay từ bây giờ ! » . Đến ngày 15/08/2021, cả thế giới đã chứng kiến cuộc tháo chạy ê chề khỏi Kabul. RFI : Còn trên hồ sơ Ukraina hiện tại thưa giáo sư ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Về Ukraina, tôi nghĩ rằng ông Putin cũng đã thấy bài học Việt Nam khi đưa quân xâm được Ukraina năm 2022. Có khả năng rất cao tổng thống Nga quan niệm dù Mỹ có viện trợ dồi dào nhưng nếu kéo dài cuộc chiến ít lâu thì rồi Mỹ cũng phải buông tay. (…) Tuy nhiên, tổng thống Zelensky vẫn còn một phương tiện để điều đình : Hoa Kỳ đang rất cần đất hiếm của Ukraina khi mà Trung Quốc đã bắt đầu ngừng xuất cảng đất hiếm sang Mỹ (…) Zelensky có tài nguyên khoáng sản để giữ Mỹ lại một phần nào. Hơn nữa Ukraina giờ đây có cả khối Âu châu yểm trợ. 50 năm trước Miền Nam Việt Nam cô đơn một mình. Tôi còn nhớ ngày 21/12/2022 sau khi được Quốc Hội Mỹ tiếp đón nồng hậu, ra khỏi Quốc Hội, tổng thống Zelensky trông đã rất vui vẻ. Sau đó, tôi đã chia sẻ quan điểm rằng dù có nhận được gói viện trợ hào phóng thì Ukraina cũng vẫn phải chuẩn bị cho tình huống tồi tệ nhất : Một ngày nào đó, sự yểm trợ sẽ không còn nữa. Trước Zelensky, thì tổng thống Afghanistan, Hamid Karzai cũng từng được Quốc Hội Mỹ đón tiếp, để rồi ngày bị Mỹ bỏ rơi ngày 15/08/2021. GS Nguyễn Tiến Hưng : « Người Mỹ chóng chán (...) Chiến tranh kéo dài quá ba năm là họ không chịu nổi ». RFI : Trên tất cả các cuộc xung đột vừa nêu và cho đến cuộc chiến thương mại mà chính quyền Mỹ hiện nay đang khơi mào với gần hết thế giới, những căng thẳng hiện tại với các đồng minh thân thiết nhất của Washington như Châu Âu, Canada hay Nhật, Hàn Quốc cũng như với các quốc gia mà Mỹ đã ký Hiệp Định Đối Tác Chiến Lược như Việt Nam… Ông đánh giá thế nào về khái niệm « đồng minh » trong quan niệm của Hoa Kỳ ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Có lẽ cái hay nhất là tôi nhắc lại câu tổng thống Thiệu khi ông ấy phản hồi về cuộc chiến. Ông nói rằng « Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ nhưng làm bạn với họ thì thật là khó » 2 . Câu hỏi đặt ra là tại sao ông ấy lại nói như vậy thì có một lần tổng thống Thiệu tâm sự với tôi « Chính sách của Hoa Kỳ thì nay thế này mai thế khác biết đâu mà mò ! » 3 . Một trong những điểm mà tổng thống Thiệu không hiểu rằng thể chế của Mỹ, cứ 4 năm có cuộc bầu cử mà mỗi một lần. Có cuộc bầu cử là có sự thay đổi sâu sắc. Thí dụ như cuộc bầu cử năm 2024 vừa rồi chúng ta thấy nó thay đổi như thế nào ! Vì thế khi bang giao với Mỹ thì phải hiểu văn hóa của Mỹ và hiểu thể chế của nước Mỹ. Về văn hóa thì người Mỹ rất chóng chán - Không cái gì trụ được quá 3 năm... một cuộc chiến kéo dài hơn ba năm thì họ không chịu được. Điển hình là cuộc chiến Việt Nam : trong giai đoạn từ năm 1965 cho đến 1968, công luận ủng hộ hết mình. Nhưng sau 3 năm thì họ chán. Cuộc chiến Ukraina cũng vậy. Đó cũng là thường tình thôi. Có chăng là Âu châu không học cái bài học cũ, và câu nói của ông Thiệu năm xưa bây giờ vẫn còn tính thời sự (…) Về khái niệm đồng minh nó không có liên tục mà thay đổi tùy từng thời gian và tùy vào quan niệm về quyền lợi của Hoa Kỳ. Thí dụ như ngày 14/04/2024 trên đài PBS tổng thống Zelensky tuyên bố với nữ ký giả Amna Nawas : « Tôi có thể nói thẳng với bà rằng nếu không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, chúng tôi sẽ không thể nào chiến thắng. Có nghĩa là chúng tôi sẽ thất bại » . Nghe câu này tôi lập tức nhớ lại lời ông Nguyễn Văn Thiệu. Tuyên bố cũng với nữ ký giả tên là Oriana Fallaci tháng 1/1973. Ông Thiệu nói : « Thưa bà, nếu Mỹ bỏ rơi thì đối với chúng tôi đó là sự kết thúc : sự kết thúc hoàn toàn, sự kết thúc tuyệt đối » . Chỉ cần thay hai cái tên Zelensky bằng Nguyễn Văn Thiệu thì toàn bộ ngữ điệu nội dung và tâm thế gần như không thay đổi. Lịch sử như đang đã lập lại, nó chỉ hơi khác là khác về nhân vật và địa danh thôi. « Word should be gotten to Nixon that if Thieu meets the same fate as Diem , the word will go out to the nations of the world that it may be dangerous to be America's enemy, but to be America's friend is fatal » (Kissinger 11/1968) RFI : Vậy phải chăng, luôn có một sự xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ít ra là từ nửa thế kỷ qua thưa giáo sư ? GS Nguyễn Tiến Hưng : Lord Palmerston (thủ tướng Anh trong giai đoạn 1859-1865) đã từng nói : Nước Anh chẳng có bạn vĩnh viễn và cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi là vĩnh viễn. Vì cơ duyên lịch sử tôi đi du học ở Hoa Kỳ từ năm 1958 nên đã chứng kiến tất cả cuộc chiến tranh Việt Nam từ tổng thống Eisenhower rồi đến Kennedy, Johnson, Nixon và sau cùng là Ford. Nghiên cứu mấy chục năm nay thì thấy rõ rằng Mỹ luôn đặt quyền lợi của mình trên hết. (...) Lý do quan trọng nhất để Hoa Kỳ nhảy vào cuộc chiến Việt Nam đó chính là vì quyền lợi của Hoa Kỳ. Vì muốn giữ địa vị là siêu cường số một của thế giới cho nên phải ngăn chặn Trung Cộng với chính sách gọi là containment of red China - ngăn chặn Trung Cộng đỏ . Khi Mỹ tháo chạy thì lý do quan trọng thứ nhất cũng chỉ vì quyền lợi của Hoa Kỳ, vì Việt Nam không còn quan trọng nữa khi ông Nixon mở được cửa Bắc Kinh. Khi Nixon nối lại bang giao với Bắc Kinh, mở cửa Bắc Kinh thì tất phải đóng cửa Sài Gòn. Bắt được tay ông Mao thì phải buông tay ông Thiệu. Cũng như là sau Thế Chiến Thứ Hai, quyền lợi của Mỹ khi xây dựng NATO (Liên Minh Bắc Đại Tây Dương) là để có một thành trì vững chãi ở bên kia Đại Tây Dương, ngăn chận Liên Xô. Bây giờ Liên Xô đã chụp đổ và Chiến tranh lạnh không còn nữa thì NATO không còn quan trọng nữa. Do vậy bài học chính yếu là phải tự trông cậy vào mình chứ không thể nào trông cậy vào người ngoài mãi mãi. GS Nguyễn Tiến Hưng : « Khi Nixon mở cửa Bắc Kinh thì tất phải đóng cửa Sài Gòn. Bắt được tay ông Mao thì phải buông tay ông Thiệu » RFI : Trân trọng cảm ơn Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. ***** Trong Lời Mở Đầu cuốn « Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm » , tác giả Nguyễn Tiến Hưng nhắc lại hai sự kiện diễn ra cách nhau đúng nửa thế kỷ : « Năm 1972, tiến sĩ Kissinger, cố vấn tổng thống Nixon nên bỏ rơi Miền Nam Việt Nam và đổ cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa ‘kém cỏi’ » (tr.23). Năm mươi năm sau, tại Diễn Đàn Davos -Thụy Sĩ, cũng ông Kissinger « công khai đề nghị Ukraina phải nhường ngay một phần lãnh thổ cho Nga và chấp nhận một số điều kiện của Nga ». Đến những trang cuối cuốn sách, tác giả trích dẫn thêm quan điểm của Henry Kissinger : « Đừng làm Nga mất mặt (…) nếu không thì sẽ có thể có những xáo trộn không thể giải quyết được (…) và đừng quên Nga là một thế lực mạnh mẽ tại Âu châu » (tr. 452). -------- Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập (1986) đồng soạn thảo với nhà báo Jerrod Schecter ; Khi Đồng Minh Tháo Chạy (2005) , Tâm Tư Tổng Thống Thiệu (2010), Khi Đồng Minh Nhảy Vào (2016) . Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm , NXB Hứa Chấn Minh. Theo giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tâm sự với bà Anna Chennault, một nhân vật thân tín của tổng thống Nixon, trong một cuộc gặp tại Đài Loan sau khi ông Thiệu rời Sài Gòn năm 1975. Lời tổng thống Thiệu khi gặp lại phụ tá của ông là giáo sư Nguyễn Tiến Hưng tại Luân Đôn, Anh Quốc, năm 1976.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Phong trào chống chiến tranh Việt Nam 1965-1975 và đảng Lao động Anh 11:58
11:58
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai11:58
Dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước Việt Nam (1975-2025) là thời điểm tốt để đánh giá lại giai đoạn 1965-1975 ở Anh, khi chính phủ đảng Lao động chịu sức ép nội bộ nên đã chọn quan điểm khác dần Washington về cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam. Việc tìm hiểu thời kỳ này giúp công chúng hiểu thêm về tính đa diện và tác động đa chiều của nhiều xu thế, trào lưu chính trị-xã hội tại châu Âu một thời, khi mà cuộc chiến tại Việt Nam được nói đến liên tục trên truyền thông và có tác động đến cả một thế hệ người Anh. Thông tín viên Nguyễn Giang từ Luân Đôn, cũng là nhà nghiên cứu Đông Nam Á tại Luân Đôn, hiện làm việc ở cương vị chuyên gia khách mời (non-resident fellow) với Viện Quan hệ Quốc tế, Đại học NCCU, Đài Bắc, đã nghiên cứu chủ đề này và giới thiệu những gì công chúng chưa được biết về Phong trào chống chiến tranh Việt Nam và di sản của phong trào này đối với đảng Lao động và chính trị Anh ngày nay. RFI : Phong trào chống Chiến tranh Việt Nam ở Anh sinh ra từ đâu ? TTV Nguyễn Giang : Vâng, khác với cách hiểu thông thường còn khá phổ biến ở nhiều nơi, phong trào của thanh niên, sinh viên, trí thức ở Anh phản đối sự can dự của quân đội Hoa Kỳ tại Đông Dương có xuất phát điểm không phải từ nhận thức giai cấp và giới công nhân Anh ít có mặt trong các cuộc đấu tranh có trí thức, sinh viên đi đầu. Theo Claire Mansour, viết trong nghiên cứu mới “The British Movement against the Vietnam War” (2017), thì ngay sau khi Thế Chiến II kết thúc bằng hai trái bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản, ở Anh và các nước Tây Âu nổ ra phong trào giải trừ vũ khí hạt nhân (Nuclear disarmament movement). Trong thập niên 1950-60, phong trào này phát triển và có sự liên kết của người Anh với những người cùng chí hướng của họ ở Pháp, Tây Đức và Mỹ. Thế nhưng, bối cảnh lịch sử và nhu cầu đấu tranh ở mỗi nước có sự khác nhau. Nếu như ở Mỹ, phong trào phản chiến thường do các trí thức thiên tả lãnh đạo, có mang màu sắc chống phân biệt chủng tộc, ủng hộ quyền vươn lên của người da đen, thì ở Anh, “the British anti-Vietnam War movement” có mục tiêu đạo đức, luân lý. Luận điểm chính của các nhà vận động đòi Anh đơn phương bỏ vũ khí nguyên tử là Đế quốc Anh đã bị giải thể, nước Anh cần giành lại vị trí lãnh đạo thế giới về đạo đức trên trường quốc tế. Họ lên án chủ nghĩa đế quốc kiểu mới của Hoa Kỳ, và chia sẻ sự đồng cảm với nhân dân các nước vừa thoát ra khỏi chủ nghĩa thực dân. RFI : Người Anh, thuộc đảng Lao động hay các nhóm chính trị phe tả phái khác, đã làm gì ? TTV Nguyễn Giang : Điều họ làm là xuống đường, tuần hành để chống sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam. Ví dụ tháng 02/1965 là thời điểm bước ngoặt của phong trào tại Anh. Ủy ban Oxford vì Việt Nam (Oxford Vietnam Committee), tổ chức vẫn còn cánh thanh niên của Cuộc vận động giải trừ vũ khí nguyên tử (Campaign for Nuclear Disarmament), đã làm được cuộc tuần hành lớn đầu tiên trên cả nước, trước cuộc tuần hành đông người ở Hoa Kỳ tới vài tháng. Kể từ đó, phong trào lớn mạnh qua năm tháng về số lượng, với một trong những đợt tuần hành đông người nhất trong năm 1968, đạt con số tới 100 nghìn người ở Quảng trường Trafalgar, London. RFI: Trí thức Anh đóng vai trò như thế nào trong phong trào này ? TTV Nguyễn Giang : Nói tới phong trào chống chiến tranh Việt Nam thì phải nhắc tới triết gia Anh Bertrand Russell, người cùng vợ là Edith Russell, đã thành lập vào năm 1963 Quỹ Hòa bình mang tên Bertrand Russell Peace Foundation, để phản đối điều hai ông bà gọi là “Cuộc giết chóc của Mỹ và Anh” (Các báo Anh đã đăng hình họ mang tấm biểu ngữ to: End Anglo-American Butchery in Vietnam trong cuộc tuần hành ngày 30/06/1965 ở London). Sau này, cùng với triết gia Pháp Jean-Paul Sartre, ông Russell lập ra Ủy ban Quốc tế về Tội ác Chiến tranh của quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam, đã cử đại diện sang Hà Nội, gặp các ông Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Ủy ban này được khá nhiều trí thức, văn nghệ sĩ và chính trị gia ủng hộ, ví dụ như những vị được giải Nobel Prize gồm Max Born, Linus Pauling, Albert Schweitzer, diễn viên Anh Vanessa Redgrave, nhà quý tộc Lord Boyd Orr, Hoàng hậu Elizabeth của Bỉ, thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru, tổng thống các nước Pakistan, Ghana, Tanzania và Hoàng thân Campuchia Norodom Sihanouk. Điều đáng nói về thái độ của trí thức Anh, như ông Russell, là họ ủng hộ miền Bắc Việt Nam và chống hoạt động chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam, nhưng ông Russell không phải là người theo chủ nghĩa cộng sản, và ông vẫn viết thư đều đặn cho tổng thống Mỹ Lyndon Johnson yêu cầu, đề nghị chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và cải thiện quan hệ với Cuba. Thư của ông không được chính quyền Mỹ hồi đáp. Ông Russell không tin vào lý thuyết đấu tranh giai cấp là cách cải thiện xã hội như ý thức hệ chính thống ở các nước theo mô hình XHCN hồi đó vẫn nói, mà chỉ đơn giản muốn thúc đẩy hòa bình, đối thoại, thay cho chiến tranh, dù là chiến tranh nguyên tử hay chiến tranh bằng bom đạn. Tinh thần của ông ấy là ủng hộ Bắc Việt Nam vì miền Bắc Việt Nam khi đó bị Mỹ ném bom. Xin nhắc rằng trong suốt cuộc chiến Việt Nam, ông Russell chưa hề đến Nam hay Bắc Việt Nam, nhưng trong một bài viết thì ông từng đến thành phố Sài Gòn vào năm 1920 khi Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Cảm giác của ông về thành phố đó, được ghi lại, nguyên văn là “một đô thị để người châu Âu giàu sang hưởng lạc một cách bệnh hoạn”. Có thể thấy ngay từ hồi trẻ, ông đã không ưa chủ nghĩa thực dân châu Âu. RFI : Còn về phong trào ở Anh phản đối Chiến tranh VN thì những diễn biến tiếp theo của nó là gì ? TTV Nguyễn Giang : Càng về sau, tính chất và khẩu hiệu đấu tranh càng thay đổi, và yếu tố nhân sự của phong trào giải trừ vũ khí nguyên tử giảm đi, nhường chỗ cho các khẩu hiệu ủng hộ VNDCCH, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Xin nhắc rằng biểu tình phản chiến ở Anh xảy đến hoàn toàn vì các lý tưởng như đoàn kết quốc tế mà thanh niên Anh theo đuổi, vì họ không phải đi lính. Trái lại, phong trào ở Mỹ có yếu tố chống quân dịch, với lý do thanh niên Mỹ phải phục vụ trong quân đội và bị đưa sang chiến trường Nam Việt Nam. Mặt khác, vì chính phủ Harold Wilson không đồng ý với yêu cầu của Hoa Kỳ đưa quân Anh tham chiến ở Nam Việt Nam, nên mục tiêu đấu tranh của phong trào phản chiến trên đường phố London, Leeds, Manchester là yêu cầu Anh gây sức ép để Mỹ chấm dứt cuộc chiến. Cũng vì thế, các đợt Không quân Hoa Kỳ oanh kích VNDCCH bị phản đối dữ dội và chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 trở thành mục tiêu phê phán Mỹ kịch liệt. Vào ngày 17 tháng 3 năm 1968, có cuộc tuần hành lớn, vài chục nghìn người ở London và theo sau bằng cuộc xuống đường đông đảo hơn, 100 nghìn người vào ngày 27 tháng 10 cùng năm. RFI : Chính phủ Anh đã ứng xử ra sao khi mà Anh có quan hệ đồng minh chặt chẽ với Hoa Kỳ ? TTV Nguyễn Giang : Theo sử gia cánh tả Keith Flett, phong trào phản chiến tại Anh đã có tác động tới quyết định của chính phủ Harold Wilson thuộc đảng Lao động, không đưa quân Anh tham chiến ở Nam VN hỗ trợ cho quân đội Mỹ theo yêu cầu của Washington năm 1964. Dư luận Anh, giới truyền thông, như BBC, đã thúc đẩy chính phủ tìm kiếm giải pháp khác cho cuộc chiến Việt Nam. Các đợt Mỹ ném bom rải thảm ở Campuchia làm dấy lên một làn sóng đấu tranh mới, nhưng cũng có lo ngại về sự vươn dậy của lực lượng Khmer Đỏ, theo các tài liệu Anh nhắc lại giai đoạn 1970-71. Ví dụ khi Hoa Kỳ ném bom miền Bắc Việt Nam vào cuối năm 1972, báo chí Anh đã chỉ trích chính phủ là quá nhượng bộ Washington, trong khi chính quyền các nước châu Âu như Bỉ, Ý, Hà Lan, Na Uy, Phần Lan lên án các đợt oanh kích. Biểu tình nổ ra ở London, Rome, Amsterdam và Copenhagen. Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme ví các trận bom của Mỹ dội xuống khu dân cư và bệnh viện (Bạch Mai) như "bom của phát-xít Đức" tàn phá các đô thị châu Âu trong Thế Chiến II. RFI : Sau cuộc chiến Việt Nam, phong trào phản chiến trong đảng Lao động Anh có còn tồn tại hay không và nếu có thì họ hoạt động ra sao ? TTV Nguyễn Giang : Câu chuyện sau ngày 30/04/1975 tưởng như đã chỉ còn là hoài niệm nhưng vẫn đóng vai trò định hình chính sách đối ngoại của đảng Lao động và phe tả Anh cho tới hôm nay. Khi còn làm việc ở London, tôi đã có dịp gặp và nghe lời kể từ nhà ngoại giao Michael Williams, cố vấn cho bộ trưởng Ngoại Giao Jack Straw của đảng Lao động, về lý do thời trẻ có khá nhiều sinh viên Anh phản đối điều họ nói là “sự can thiệp tàn khốc của quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam”. Cả hai ông Williams và Straw thời trẻ đều từng tham gia các cuộc tuần hành nổi tiếng ở London vốn bắt đầu năm 1965, mở đường cho một phong trào có chất lượng đấu tranh đô thị và các khẩu hiệu khác trước. Vào những năm 2019-20, tôi cũng có dịp phỏng vấn ông Jack Straw, khi đó đã rời vị trí bộ trưởng, trong sự kiện ông bảo trợ trong Quốc hội Anh nhằm ủng hộ cuộc đấu tranh đòi bồi thường cho nạn nhân chất da cam ở Việt Nam. Vể sau này thì có 3-4 cuộc chiến đã khiến di sản chống chiến tranh Việt Nam lên tiếng ở Anh. Đó là năm 1982 khi nữ thủ tướng thuộc đảng Bảo thủ Anh, Margaret Thatcher, quyết định đưa quân sang quần đảo Falklands (Malvinas) đẩy quân Argentina ra khỏi đó. Lãnh đạo đảng Lao động đối lập, Michael Foot, đã ủng hộ hành động của bà Thatcher, dù bị nhiều nhân vật trong đảng Lao động phản đối. Vào các năm 1997 và 2010, Anh lại đưa quân ra nước ngoài, sang Iraq, Afghanistan và Libya. Các nhân vật phản chiến hàng đầu của đảng này như Tony Benn và Jeremy Corbyn đã phản đối chính phủ của Tony Blair cùng đảng đưa quân giúp Mỹ. Ông Corbyn sau trở thành lãnh tụ đảng Lao động và kiên trì chống cuộc chiến mới nhất của Israel ở Gaza. RFI : Với tình hình hiện nay thì sao ? TTV Nguyễn Giang : Xin nhắc là đương kim thủ tướng Anh, luật sư nhân quyền Keir Starmer, đã xuống đường cùng ‘Liên minh ngăn chiến tranh’ (Stop the War Coalition) với chừng 1 triệu người khi nổ ra cuộc chiến Iraq năm 2003. Đó là hình ảnh gợi lại các cuộc tuần hành ở London phản đối chiến tranh Việt Nam. Nhưng gần đây nhất, khi lên cầm quyền, ông Starmer lại đưa đảng Lao động vào một con đường hỗ trợ Ukraina tới cùng, kể cả khi Mỹ và Nga đang đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Tất nhiên bối cảnh của cuộc chiến Ukraina rất khác chiến tranh Iraq và hiện nay, các đảng tả và hữu hay trung dung như Tự do Dân chủ (LibDem) đều ủng hộ Ukraina chống lại Nga. Nhưng như sử gia Keith Flett đánh giá thì ở Anh luôn có hai xu thế: chiến tranh đế quốc và phong trào phản chiến. Đảng Lao động luôn là nơi có những người theo phái hòa bình (pacifists) và phản chiến nói chung và đó đã là truyền thống của họ, kể cả khi có những lãnh đạo như ông Tony Blair hay Keir Starmer, được bầu lên lãnh đạo quốc gia và chọn con đường khác.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Đức Giáo hoàng Phanxicô, người đem lại làn gió mới từ tân thế giới 9:39
9:39
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai9:39
Chiều tối ngày 13/03/2013, trong làn mưa nhẹ và không khí se lạnh của mùa đông Roma, đoàn người đông đảo trên quảng trường Thánh Phê-rô vỗ tay vui mừng khi thấy làn khói trắng tỏa ra từ ống khói của nhà nguyện Sistine. “Habemus papam” lời thông báo chính thức của vị hồng y tổng phó tế và vị hồng y niên trưởng đã giới thiệu với toàn thế giới vị giáo hoàng mới trên ban công của Đền Thánh Phê-rô. Đức hồng y Jorge Mario Bergoglio, tổng giám mục thủ đô Buenos Aires, Achentina, sẽ là tân giáo hoàng Phanxicô kế nhiệm đức Bênêđíctô XVI, người đã từ nhiệm một tháng trước. Vị giáo hoàng đầu tiên đến từ châu Mỹ đã thực sự đem lại làn gió mới cho giáo hội công giáo. Người đến từ Tân Thế Giới Jorge Mario Bergoglio sinh ra tại thủ đô Argentina vào ngày 17 tháng 12 năm 1936, trong một gia đình di dân gốc Piemonte. Cha ngài là một nhân viên đường sắt và mẹ làm nội trợ. Ngài có 5 anh chị em. Sau khi tốt nghiệp kỹ thuật viên hoá học, ngài gia nhập Dòng Tên ngày 11 tháng 3 năm 1958. Ngài đã hoàn thành chương trình văn chương ở Chile và lấy bằng thạc sĩ triết học ở Achentina. Sau hai năm làm giáo sư văn chương và tâm lý học ở Buenos Aires, ngài tiếp tục học và lấy bằng thạc sĩ thần học năm 1970. Ngài được thụ phong linh mục vào ngày 13 tháng 12 năm 1969. Đức Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm ngài làm Tổng giám mục giáo phận Buenos Aires vào ngày 28 tháng 2 năm 1998. Và Đức Gioan Phaolô II đã tấn phong ngài làm hồng y ba năm sau. Với tư cách là Tổng giám mục của Buenos Aires - một giáo phận có hơn ba triệu dân - ngài đã tạo nêm cộng đồng cởi mở và huynh đệ; sự tham gia tích cực và có ý thức của người giáo dân; truyền giáo tới toàn thể cư dân thành phố; hỗ trợ người nghèo và người bệnh. Ngài là khuôn mặt uy tín của giáo hội ở Mỹ La tinh trước khi được bầu làm giáo hoàng thứ 266. Với nửa lá phổi Năm 1957, khi là chủng sinh, ngài ngã bệnh và đã bị cắt bỏ thùy trên phổi phải. Sau khi lành bệnh, ngài đã gia nhập Dòng Tên vì bị thu hút bởi ơn gọi truyền giáo và kỷ luật của Dòng Tên trong thời gian dưỡng bệnh. Khi bắt đầu làm giáo hoàng, ngài đã ví giáo hội như một bệnh viện dã chiến nơi chiến trường với biết bao nhiêu là vấn đề nảy sinh. Và những người mục tử của giáo hội phải mang lấy mùi chiên của những con chiên trong đàn chiên mà người ấy đang chăm sóc. Đó là phong cách của papa callejero , giáo hoàng của đường phố, như ngài vẫn giữ khi còn ở Buenos Aires. Đi đến vùng ngoại biên (phéripherie) Trong ngôn ngữ ngày nay, vùng ngoại biên (phéripherie) gợi lên những nơi bị quên lãng bởi chính quyền, nơi của sự nghèo đói và tệ nạn, nơi chất chứa những mối nguy hiểm. Đó không chỉ là sự tận cùng của một vùng địa lý mà còn là nơi không được chú ý. Nhưng đây lại là nơi chú ý và khuyến khích của Đức Phanxicô. Những chuyến viếng thăm mục vụ của ngài đã đưa ngài đến những vùng đất “xa xôi”, nơi mà số lượng tín hữu ki-tô chỉ là thiểu số, như Mông Cổ, Indonesia, Papua Tân Guine, hay các nước Ả Rập vùng Vịnh. Đó chính là những nơi ngài gặp gỡ với các tôn giáo khác trong sự đối thọai trong tình huynh đệ. Đối thoại với sự thuần khiết và khẩn cấp của một không gian sống chung của cả nhân loại cần phải gìn giữ và bảo vệ. Đó chính là những gì ngài đã viết trong hai thông điệp Fratelli tutti và Laudato sì. Vùng ngoại biên đó còn là lằn ranh giới giữa con người và máy móc (AI). Đứng trước sự phát triển mau chóng của công nghệ mới, của sự thay thế con người bằng trí thông minh nhân tạo khiến thế giới đánh mất phương hướng, thì Giáo hội phải là người bạn đồng hành của tất cả những người thiện chí đang tìm kiếm ý nghĩa trong thế giới phức tạp hiện đại của chúng ta. Cải cách sâu rộng giáo triều (curia) Cải tổ giáo triều (curia romana) là yêu cầu cấp thiết của công nghị hồng y trong cuộc bầu giáo hoàng. Đó là việc tiếp tục những gì mà dưới thời đức Bênêđictô đang thực hiện. Và Đức Phanxicô xem đó như là một trong những nhiệm vụ chính trong nhiệm kỳ của ngài. Tông hiến Praedicate evangelium (19/03/2022) là kết quả của một quá trình dài và một trong những mục tiêu chính của triều đại Giáo hoàng của Đức Phanxicô là cải cách Giáo triều Rôma. “ Những thay đổi về cấu trúc, những điều mới được quyết định bởi bối cảnh hiện tại, những quy trình đã được tiến hành trong nhiều năm và cuối cùng đã hoàn thành ”, Đức Hồng Y Pietro Parolin đã nói về Tông hiến cải tổ Giáo triều Rôma. Đức Hồng Y cho biết, “ Praedicate evangelium ra đời từ những đúc kết kinh nghiệm và điều chỉnh trong những năm qua, thực hiện những bước đi mới, để “ hoàn thiện bức tranh tổng thể ,” theo ba tiêu chí: “ sự hiệp thông của các thể chế Giáo hội, sự hợp tác trong các tương quan giữa các văn phòng, và việc điều chỉnh thái độ của mỗi cá nhân .” Mặt khác, các Hội đồng Kinh tế, Ban Thư ký Kinh tế, Văn phòng Kiểm toán. Các cơ quan này hiện “ đang phục vụ cho sứ mạng ”; thật vậy, chúng không phải là “ nhiệm vụ cốt lõi ” của Giáo triều Roma, nhưng “nhằm giúp đỡ để phục vụ sứ mạng vốn đã được thực hiện bởi nhiều bộ và ban, trong đó “ điểm tham chiếu không thay đổi ” chính là dựa vào Học thuyết Xã hội của Giáo Hội và “ bổn phận rao giảng Tin Mừng .” Vai trò của phụ nữ và giáo dân Trong triều đại của Đức giáo hoàng Phanxicô, phụ nữ và người giáo dân được tham gia nhiều hơn vào việc quản trị của giáo triều. Họ không những được chỉ định giữ các chức vụ lãnh đạo ở cấp bộ mà còn trực tiếp tham gia trong việc đưa ra các quyết định của Giáo hội. Ngày 06/01/2025, nữ tu Simona Brambilla 60 tuổi được bổ nhiệm làm Tổng trưởng của Bộ các Tu hội Đời sống Thánh hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ. Nữ tu Raffaella Petrini sẽ làm Chủ tịch Phủ Thống đốc Vatican từ 1/3/2025. Hay trước đó, Ông Paolo Ruffini làm Tổng trưởng Bộ Truyền thông. Đó là những ví dụ minh hoạ cho sự thay đổi trong giáo triều Roma. Những người giáo dân nam nữ và nữ tu không chỉ phục vụ với vai trò giúp việc cho các giáo sĩ nhưng nay họ tham gia một cách trực tiếp và chủ động trong các nhiệm vụ trong giáo hội. Minh hoạ rõ nhất đó là thượng hội đồng về “Hiệp hành” kéo dài từ năm 2021 và kết thúc vào tháng 10/2024. Mà các ý kiến được thu thập từ mọi thành phần trong giáo hội. Và hai cuộc họp toàn thể vào tháng 10/2023 và 10/2024 chứng minh sự đồng hành của mọi thành phần trong giáo hội, khi các thành viên tham dự được chia đều thành từng bàn chứ không xếp theo phẩm trật như vốn thường xảy ra trong các thượng hội đồng trước. Có thể đây là bước tiếp theo để tiếp tục nghiên cứu và suy tư về việc truyền chức cho phụ nữ và những người đã có gia đình. Trước những bê bối trong Giáo hội Nhưng những vụ việc ấu dâm và lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ bị phanh phui ở khắp nơi trở thành một vết nhơ trong Giáo hội Công giáo. Đức Phanxicô đã có biện pháp triệt để bằng Tông thư dưới dạng tự sắc Vos estis lux mundi - Các con là ánh sáng thế gian công bố 9/5/2019. Và phiên bản cập nhật của Tông thư này được ban hành ngày 25/3/2023 và có hiệu lực từ ngày 30/4/2023. Cũng như, sửa đổi cuốn VI của Bộ Giáo Luật. Theo đó, định nghĩa lại khái niệm tội phạm và những vấn đề liên quan. Mà bất cứ một giáo sĩ nào vi phạm việc này lập tức đã là tội phạm chứ không cần đến quá trình xét xử. Cũng như, những nạn nhân không chỉ là những trẻ em hay trẻ vị thành niên mà bất cứ những ai dễ bị tổn thương, chẳng hạn như người khuyết tật. Bản văn cũng xác định vai trò và trách nhiệm của những người có trách nhiệm trong việc giải quyết những vụ việc này. Và cũng xác định việc hợp tác với chính quyền dân sự trong những vụ việc này. Vấn đề giáo lý Tháng 12/2023, Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, giới thiệu Tuyên bố Fiducia supplicans về ý nghĩa của các sự chúc lành. Điều này đã gây ra phản ứng dữ dội từ hàng giám mục của các nước Châu Phi, Hoa Kỳ và các thành phần bảo thủ trong Giáo hội. Vì tuyên bố này gây hiểu lầm nghiêm trọng trong việc chúc lành cho các cặp đôi đồng tính, một cách nào đó là Giáo hội công nhận những cặp đôi này. Và Đức Phanxicô đã phải lên tiếng giải trình trong buổi tiếp các thành viên của bộ giáo lý đức tin ngày 26/1/2024. Trong đó, ngài nhấn mạnh việc giáo hội luôn đồng hành với hết mọi người không loại trừ bất cứ ai và việc chúc lành không phải là bí tích nhưng kéo người ta lại gần với Chúa hơn. Vấn đề hôn nhân đồng tính và ly dị tái hôn trong giáo hội vẫn còn là vấn đề lớn. Tuy tại một số quốc gia điều này đã trở nên bình thường và được luật hoá. Là một người của mục vụ, Đức Phanxicô đã đối diện với vấn đề này bằng Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris laetitia - Niềm vui Yêu thương . Trình bày những giải pháp trước những thách đố của các vấn đề hôn nhân bằng tình yêu thương trong sự phân định của Thánh Thần nơi gia đình hơn là luật pháp với những phép tính toán học. Kết Đức giáo hoàng Phanxicô bắt đầu triều đại của ngài khi tuổi đã cao giống như đức Gioan XXIII. Một vị giáo hoàng “chuyển tiếp” Gioan XXIII đã đem lại bầu khí mới aggiornamento của Công đồng Vatican II cho Giáo hội. Có lẽ Đức Phanxicô với nửa lá phổi của mình đã thổi vào Giáo hội một bầu khí trong lành – Buenos Aires để Giáo hội đi cùng và đi với thế giới của những con người của ngày hôm nay.…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Mỹ - Âu họp tại Paris: Nỗ lực vì hòa bình cho Ukraina có bước tiến lớn hay chỉ là ảo ảnh ? 9:54
9:54
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai9:54
Lần đầu tiên kể từ khi Donald Trump lên cầm quyền, ba bên Mỹ, Ukraina và các nước châu Âu họp lại để tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh tại Ukraina. Cuộc gặp mở ra cơ hội đạt giải pháp hòa bình, nhưng khác biệt giữa lập trường hai bên tham chiến, Nga và Ukraina, còn rất lớn. Nỗ lực vì hòa bình cho Ukraina có một bước tiến lớn hay chỉ là ảo ảnh ? Theo đặc sứ Mỹ Steve Witkoff, sau cuộc gặp tổng thống Nga Vladimir Putin, « 5 vùng lãnh thổ » của Ukraina mà Matxcơva đang kiểm soát sẽ phải là một nội dung chủ yếu trong thỏa thuận chấm dứt xung đột tại Ukraina. Nhân nhượng lãnh thổ là điều mà cho đến nay chính quyền Kiev không chấp nhận. Cuộc họp lần thứ 17 của nhóm Ramstein, gồm 50 nước hỗ trợ quân sự Ukraina, cam kết huy động 21 tỉ euro để tăng cường sức mạnh quân sự của Ukraina nói chung, và để hỗ trợ quốc gia này trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nga nói riêng. Ủy Ban Châu Âu khuyến cáo các quốc gia thành viên và các nước ứng cử vào Liên Âu không tham gia Ngày kỉ niệm chiến thắng phát xít 09/05 tại Matxcơva. Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua một nghị quyết về quan hệ giữa Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Toàn Châu Âu (Council of Europe / Conseil de l’Europe), lên án cuộc xâm lược của Nga chống Ukraina. Việt Nam bỏ phiếu thuận. Trên đây là các chủ đề chính của Tạp chí Thế giới Đó đây tuần này. Mỹ - Âu – Ukraina lần đầu tiên họp : Mỹ vừa tung ra « thỏa thuận khung », vừa đe đổ vỡ Ngay từ khi lên cầm quyền, tổng thống Mỹ Donald Trump khẳng định chủ trương thúc đẩy đối thoại trực tiếp giữa Washington và Matxcơva, để một mặt nhanh chóng bình thường hóa quan hệ song phương, và mặt khác, tìm giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh Nga – Ukraina. Trong suốt thời gian vừa qua, châu Âu bị gạt ra một bên. Hôm 17/04, lần đầu tiên các giới chức cao cấp Mỹ, gồm ngoại trưởng Marco Rubio và đặc sứ của tổng thống Steve Witkoff, có cuộc họp với các lãnh đạo Pháp, Anh, Đức cùng Ukraina tại Paris. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron hoan nghênh một cuộc thảo luận « tích cực và mang tính xây dựng », với sự tham gia của châu Âu, và vấn đề bảo đảm an ninh cho Ukraina đã được phía Mỹ đề cập tới, theo phủ tổng thống Pháp . Một cuộc thảo luận với cùng thành phần tham dự dự kiến sẽ diễn ra tại Luân Đôn tuần tới. Đọc thêm : Ngày càng mất kiên nhẫn, tổng thống Mỹ Donald Trump dọa sẽ bỏ mặc hòa đàm Nga-Ukraina Về phía Mỹ, trả lời báo giới tại sân bay Bourget, ngoại ô Paris, trước khi lên đường về nước, ngoại trưởng Rubio một mặt cho biết một thỏa thuận khung về hòa bình đã được « đón nhận tích cực » tại Paris trong cuộc họp vừa qua, nhưng mặt khác cũng cảnh báo là nếu đàm phán dậm chân tại chỗ, Mỹ sớm ra quyết định rút khỏi hòa đàm để tập trung cho « nhiều ưu tiên quan trọng hơn ». Ngay sau cuộc họp tại Paris, ngoại trưởng Rubio điện đàm với người đồng cấp Nga Serguei Lavrov để « truyền đạt cùng một thông điệp mà phía Mỹ đã chuyển đến phái đoàn Ukrain a và các đồng minh châu Âu tại Paris », theo bộ Ngoại Giao Mỹ. Chiến thuật câu giờ và đổ lỗi của Nga: Putin tránh để Trump mất mặt Sau cuộc điện đàm Rubio – Lavrov , Matxcơva lập tức phản hồi. Báo cáo của bộ Ngoại Giao Nga về cuộc điện đàm nhấn mạnh đến thiện chí của Nga, cùng với Mỹ, tìm giải pháp hòa bình. Matxcơva tìm cách kéo dài thời gian đàm phán, và đổ lỗi thất bại cho Ukraina và châu Âu trong trường hợp đàm phán bế tắc. Thông tín viên Anissa el-Jabri từ Matxcơva giải thích : « B áo cáo của b ộ Ngoại G iao Nga tối qua về cuộc điện đàm giữa hai người đứng đầu ngành ngoại giao Nga, Mỹ , Sergei Lavrov và Marco Rubio, liên quan đến cuộc họp tại Paris , nêu rõ : ‘‘Các tiếp xúc này diễn ra trong khuôn khổ các tham vấn giữa Washington và Matxcơva , bao gồm cả cuộc gặp gần đây giữa t ổng thống Nga Vladimir Putin và đặc sứ Mỹ Steve Whitkoff." Cuộc gặp trực tiếp giữa tổng thống Nga và đặc sứ Mỹ vẫn luôn là điều có lợi cho đ iện Kremlin. Chính vì vậy, p hát ngôn viên điện Kremlin Dimitri Peskov đã phản ứng thận trọng trước các bình luận của ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio : ‘‘Vấn đề này cần phải được hỏi lại với Washington. Chúng tôi tin rằng đã có thể thấy một số tiến bộ . Tiến bộ này có liên quan đến lệnh ngừng bắn đối với các cơ sở hạ tầng năng lượng của đôi bên mà Nga đã tuân thủ. Liên bang Nga đã tham gia vào lệnh ngừng bắn này , còn phía Ukrain a thì không. Đã c ó một số tiến triển, nhưng vẫn còn nhiều cuộc thảo luận khó khăn phía trước. ’’ M a txcơva đang kéo dài thời gian trong các đàm phán từ lâu nay với kịch bản: làm nản lòng người Mỹ , khiến Washington rút khỏi các đàm phán , và hệ quả tiếp theo là giảm hỗ trợ quân sự của Mỹ cho Ukrain a . Với Matxcơva, đ iều này sẽ mở ra những cơ hội mới cho Nga trên chiến trường . N hưng để làm được điều đó , Nga phải thận trọng để không bao giờ được làm Donald Trump tức g iận , và cũng làm sao để đổ toàn bộ trách nhiệm của t hất bại cho Ukrain a, và cho châu Âu , đặc biệt là Pháp. » Đọc thêm : Triển vọng đàm phán Nga - Mỹ về Ukraina: Chiến lược đòi hỏi tối đa của Putin Ép nhượng « 5 vùng lãnh thổ »: Kiev lên án đặc sứ Mỹ là quân bài của Nga Chính quyền Trump tỏ ra là bên sốt sắng vì hòa bình cho Ukraina. Tuy nhiên, nhìn từ Kiev, đặc sứ của tổng thống Mỹ Steve Witkoff tỏ rõ lập trường thiên vị Matxcơva. Ngay trước cuộc họp đầu tiên giữa Mỹ, châu Âu và Ukraina tại Paris hôm 17/04, từ Kiev, tổng thống Volodymyr Zelensky đã cáo buộc đặc sứ của tổng thống Donald Trump về chiến tranh Ukraina, Steve Witkoff, đang « làm theo chiến lược của Nga » . Trở về sau cuộc gặp Putin tại Saint Petersbourg, đặc sứ Steve Witkoff, trong cuộc trả lời đài Mỹ Fox News hôm 14/04 , cho biết : « Đây là cuộc họp thứ ba của tôi với ông ấy. Cuộc họp kéo dài gần 5 giờ. Tham dự cuộc họp, có hai cố vấn quan trọng, là Ushakov, cố vấn ngoại giao của tổng thống Nga, và Kirill Dmitriyev, đặc phái viên kinh tế của ông Putin. Đó là một cuộc họp nhiều ý nghĩa : Cuối cùng chúng tôi đã thực sự hiểu yêu cầu của Putin, là có được hòa bình lâu dài ở đây, vượt ra ngoài lệnh ngừng bắn. Chúng tôi đã có câu trả lời cho điều đó. Ý tôi là thỏa thuận hòa bình này liên quan đến cái gọi là « 5 vùng lãnh thổ » của Ukraina, hiện Nga đang kiểm soát, nhưng ngoài ra, còn nhiều điều khác. Có các thể thức bảo đảm an ninh, có điều 5 của NATO. Ý tôi là có rất nhiều chi tiết kèm theo. Đây là một tình huống phức tạp do một số vấn đề thực sự giữa hai nước, nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể đang ở trước ngưỡng cửa của thay đổi lớn. Thay đổi này sẽ rất, rất quan trọng đối với thế giới nói chung. Trên hết, tôi tin rằng quan hệ Nga – Mỹ có khả năng tái lập thông qua một số cơ hội thương mại rất hấp dẫn mà tôi nghĩ cũng mang lại sự ổn định thực sự cho khu vực. Quan hệ đối tác tạo ra sự ổn định. » Châu Âu: Vừa tăng hỗ trợ quân sự Ukraina, vừa cố giữ chân Mỹ Kể từ khi ông Trump lên cầm quyền, các nước châu Âu không đặt nhiều hy vọng vào nước Mỹ. Nỗ lực vượt bậc để huy động các hỗ trợ quân sự cho Ukraina là mục tiêu hàng đầu của châu Âu hiện nay. Ngày 11/04 vừa qua, nhóm Ramstein, gồm 50 nước hỗ trợ quân sự cho Ukraina họp tại Bruxelles , thông báo cam kết mới, đóng góp 21 tỉ euro vì Ukraina. Đứng đầu là Đức với 11 tỉ, Anh hơn 5 tỉ euro. Đọc thêm : Châu Âu cố khẳng định vai trò đối trọng với Nga-Mỹ giải quyết cuộc chiến ở Ukraina Tăng cường nội lực của châu Âu, nhưng các nước châu Âu đồng thời cố gắng duy trì quan hệ với Washington. Bộ trưởng Quốc Phòng Đức Boris Pistorius, đồng chủ trì hội nghị cùng người đồng cấp Anh, tại trụ sở Liên Minh Bắc Đại Tây Dương NATO ở Bruxelles, đã hoan nghênh việc người đồng cấp Mỹ tham gia hội nghị qua hình thức trực tuyến, trong bối cảnh có nhiều đồn đoán về khả năng ông Pete Hegseth vắng mặt trong cuộc họp đặc biệt quan trọng với Ukraina này : « Tôi rất vui khi nói rằng chúng ta có bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Hegseth giúp bảo vệ chủ quyền của các bạn, người dân của các bạn và để răn đe. Công việc của chúng tôi, với tư cách bộ trưởng quốc phòng, là phải hành động khẩn trương, càng sớm càng tốt. Các viện trợ quân sự hiện nay sẽ giúp các bạn bảo đảm hòa bình. Nhìn lại hồi tháng 2, đây là một thời điểm để các ngành công nghiệp quốc phòng của chúng ta nỗ lực vượt bậc, và thực tế họ đang hành động như vậy. Chúng tôi đang và sẽ tiếp tục sát cánh cùng các bạn trong cuộc chiến này. Với các viện trợ cho Ukraina, các lực lượng vũ trang Ukraina sẽ là lực lượng răn đe mạnh nhất để bảo vệ đất nước. Hôm nay, chúng tôi sẽ cam kết đóng góp thêm hàng tỷ euro . » Đọc thêm : Không có Hoa Kỳ liệu châu Âu có thể đối đầu quân sự với Nga ? Xác xuất 70% « có hòa bình » cho Ukraina theo Goldman Sachs: Hòa bình theo kịch bản Putin ? Ít ngày trước cuộc họp đầu tiên ba bên Mỹ, Ukraina và châu Âu, theo Reuters, hôm 07/04, Ngân hàng Hoa Kỳ Goldman Sachs, một biểu tượng của thị trường tài chính Wall Street, dựa trên việc phân tích giá cả trái phiếu, suy ra là trong hiện tại, thị trường tin xác suất 70% đạt được « thỏa thuận hòa bình » cho Ukraina, theo thông báo của Goldman Sachs gửi khách hàng. Tỉ lệ tăng mạnh so với trước khi Trump đắc cử (chưa đến 50%), tuy có thấp hơn chút ít so với tháng 2/2025 (với 76%). Hành xử của chính quyền Donald Trump trong việc tìm giải pháp chấm dứt xung đột Nga – Ukraina tuy nhiên đang nhận được những đánh giá rất khác biệt, thậm chí trái ngược. Trong lúc một số người coi nghệ thuật đàm phán của một doanh nhân của tổng thống Trump, có khả năng giúp các bên có lợi ích khác biệt, đối kháng, có thể đi đến một thỏa hiệp, thì tại châu Âu và Ukraina, rất nhiều người hoài nghi về thiện chí và khả năng thực sự của tổng thống Mỹ trong việc thúc đẩy một thỏa thuận hòa bình với Putin. Đọc thêm - Ukraina – Nga: Chiến tranh tiếp tục, ‘‘xung đột đóng băng’’ hay đàm phán hòa bình ? Theo nhiều nhà quan sát, tổng thống Nga đã không hề nhân nhượng Trump điều gì căn bản : Putin dường như không từ bỏ các tham vọng tối đa, trong đó có việc tước đi cả quyền của Ukraina xây dựng một quân đội hùng mạnh để đủ sức tự vệ. Ukraina khó lòng chấp nhận một « nền hòa bình » với dao kề cổ. Nền « hòa bình » cho Ukraina theo Goldman Sachs cụ thể sẽ ra sao? Hòa bình theo kịch bản của Putin hay Trump buộc phải bó tay chấp nhận thất bại trong những ngày tới ? Liệu có cơ hội cho một nền hòa bình khác ? Thành viên và ứng viên vào EU không dự lễ mừng thắng phát xít do Nga tổ chức: Bruxelles khuyến cáo Trong tuần qua, một diễn biến đáng chú ý khác là việc Liên Hiệp Châu Âu quyết định tẩy chay lễ kỉ niệm mừng chiến thắng phát xít Đức, mà Nga dự kiến tổ chức lớn tại Matxcơva ngày 09/05 tới, với lãnh đạo hơn 20 nước tham dự. Ủy Ban Châu Âu khuyến cáo các nước thành viên và các ứng cử viên vào Liên Âu không tham dự. Theo ngoại trưởng Latvia Baiba Braže, được trang web Pravda Europe của Ukraina trích dẫn, cảnh báo được đưa ra trong một bữa tối làm việc với đại diện các nước vùng Tây Balkan, với giải thích « v ì điều này không phù hợp với các giá trị của Liên Âu ». Lãnh đạo ngoại giao Liên Âu Kaja Kallas cảnh báo : Liên Âu sẽ « không coi nhẹ » hành động tham dự lễ kỷ niệm ở Matxcơva. Mặc dù không có lệnh trừng phạt nào được công bố rõ đối với những người không tôn trọng khuyến cáo này, nhưng thông điệp đưa ra rất rõ: việc tham dự cuộc diễu hành có thể được coi là « khoảnh khắc làm rõ thái độ chính trị ». Theo ông Jonathan Vseviov, quan chức cao cấp bộ Ngoại Giao Estonia, được Financial Times trích dẫn, « chúng tôi đang chờ xem ai ủng hộ, ai chống lại chúng tôi ». Tuy nhiên, quốc gia Tây Balkan Serbia thông báo sẽ cử đại diện tham gia. Tổng thống Serbia Aleksandar Vucic đã xác nhận cá nhân ông sẽ có mặt tại buổi lễ, và thậm chí đã quyết định cử một đơn vị quân đội tham gia duyệt binh, theo điện Kremlin. Trong số các nước Liên Âu, chỉ có Slovakia tham dự (trái ngược với hầu hết các lãnh đạo châu Âu, thủ tướng Slovakia Robert Fico chưa hề đến Kiev kể từ đầu cuộc xâm lăng của Nga). Cảnh báo của lãnh đạo ngoại giao Liên Âu không thuyết phục được Armenia, quốc gia đang ứng cử vào Liên Hiệp Châu Âu. Thủ tướng Nikol Pachinian nhấn mạnh : việc tham gia kỉ niệm lễ chiến thắng phát xít ở Matxcơva không hề mâu thuẫn với lý tưởng hướng về Liên Âu của Armenia. Armenia, vốn có quan hệ phụ thuộc mật thiết vào Nga, bỏ phiếu trắng trong hầu hết của nghị quyết của Liên Hiệp Quốc lên án Nga xâm lược, trừ nghị quyết trong tuần qua (xem phần dưới). Cùng ngày 09/05, Bruxelles cùng chính quyền Ukraina tổ chức trọng thể Ngày sinh nhật của Cộng đồng châu Âu tại thủ đô Kiev. Ngày Châu Âu (Journée de l’Europe / Europe Day) vì Hòa bình và đoàn kết được tổ chức hàng năm để kỷ niệm Tuyên bố Schuman, tên của ngoại trưởng Pháp Robert Schuman (dẫn đến sự ra đời của Cộng đồng Than Thép châu Âu, gồm 6 nước Pháp, Tây Đức, Ý, Bỉ, Hà Lan Luxembourg), thường được coi là thời điểm khai sinh ra Liên Hiệp Châu Âu sau này. Nghị quyết lên án Nga xâm lược: Việt Nam và các nước ASEAN bỏ phiếu thuận Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 16/04 vừa qua bỏ phiếu thông qua một nghị quyết về « Hợp tác giữa Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Toàn châu Âu » (mang tên A/79/L.75), có nội dung lên án Nga xâm lược Ukraina. Nghị quyết được 105 phiếu thuận. Mỹ bỏ phiếu chống cùng Nga và 7 nước khác trong đó có Bắc Triều Tiên và Belarus. Điểm đặc biệt đáng chú ý là Việt Nam và toàn bộ các nước ASEAN bỏ phiếu thuận. Trung Quốc bỏ phiếu trắng. Việc Việt Nam và toàn bộ các nước ASEAN lần đầu tiên bỏ phiếu thuận về nội dung lên án Nga xâm lược là một sự kiện đặc biệt đáng chú ý trong bối cảnh số lượng nước ủng hộ nghị quyết lên án Nga xâm lược có xu hướng sụt giảm mạnh kể từ khi Trump trở lại nắm quyền (nghị quyết lên án Nga xâm lược hồi tháng 2/2025 chỉ được 93 nước thông qua, so với hơn 140 phiếu trong các nghị quyết trước). Hội đồng Toàn châu Âu, thành lập năm 1949, bao gồm 46 quốc gia thành viên (không kể Nga, bị khai trừ từ khi xâm lược Ukraina), gồm 27 thành viên Liên Âu, và nhiều quốc gia ngoài châu Âu, có tổng dân số khoảng 700 triệu. Đây là lần thứ hai nghị quyết về hợp tác giữa Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Toàn châu Âu được thông qua kể từ khi Nga xâm lược Ukraina. Trong cuộc bỏ phiếu lần trước, đầu năm 2023, chỉ có hai nước ASEAN ủng hộ nội dung lên án Nga xâm lược (Singapore và Philippines). « Cơ chế đa phương quốc tế », linh hồn của Liên Hiệp Quốc : Ai bảo vệ, ai ngăn cản ? Trong nghị quyết nói trên, Đại Hội Đồng ghi nhận « những thách thức chưa từng có mà châu Âu đang phải đối mặt do cuộc xâm lược của Liên bang Nga chống Ukrain a , và trước đó là chống G ruzia, việc Liên bang Nga không còn là thành viên của Hội đồng Toàn châu Âu đòi hỏi Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Toàn châu Âu phải tăng cường hợp tác , đặc biệt là nhằm khôi phục nhanh chóng hòa bình , và duy trì hòa bình và an ninh dựa trên sự tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập của mọi quốc gia … ». Đại Hội Đồng cũng lưu ý « Hội đồng Toàn châu Âu đang đóng góp vào công việc của một nhóm chuyên trách có trách nhiệm thành lập một T òa án đặc biệt xét xử tội ác xâm lược chống lại Ukrain a và sẵn sàng xem xét khả năng cung cấp chuyên môn và hỗ trợ kỹ thuật giúp cho việc thành lập và … hoạt động của T òa án đặc biệt này ». Hội đồng Toàn Châu Âu cho phép « tăng cường cơ chế đa phương quốc tế, thúc đẩy bảo vệ quyền con người và các quyền tự do căn bản », « chế độ dân chủ và Nhà nước pháp quyền », đóng góp nhiều cho « việc duy trì một châu Âu ổn định và hòa bình », theo Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Đọc thêm - Nửa thế kỷ ''Hiệp định Helsinki'': Chiến tranh Ukraina xóa sổ "Kiến trúc an ninh châu Âu" Trong bối cảnh các chế độ độc đoán trỗi dậy khắp nơi, Hội đồng Toàn châu Âu và Liên Hiệp Châu Âu nổi lên như ốc đảo của hòa bình và hợp tác. Trong bối cảnh cơ chế « đa phương quốc tế », vốn được coi là « linh hồn » của Liên Hiệp Quốc (« Beating Heart », chữ dùng của tổng thư ký LHQ Antonio Guterres) nền tảng của hợp tác toàn cầu và « hệ thống an ninh thế giới », đang bị đe dọa nghiêm trọng, việc ủng hộ hợp tác giữa Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Toàn Châu Âu có thể coi là chất thử cho thiện chí của các nước. Việc toàn thể khối ASEAN ủng hộ nghị quyết nói trên của Liên Hiệp Quốc trong lúc Trung Quốc – quốc gia vừa lớn tiếng khẳng định là trụ cột của hệ thống quốc tế, với Liên Hiệp Quốc là nòng cốt - bỏ phiếu trắng nói lên điều gì ?…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Tái triển khai lực lượng quân sự tại kênh đào Panama: Mặt trận mới của Mỹ chống Trung Quốc 10:34
10:34
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai10:34
Tập trung vào cuộc chiến thuế quan, liên tục tăng thuế nhắm vào hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, chính quyền Mỹ của tổng thống Donald Trump vẫn không quên gây áp lực đối với chính quyền nước Panama, đòi thâu tóm kênh đào Panama mà Mỹ đã xây năm 1914 và chuyển giao cho Panama quyền quản lý từ năm 1999. Lý do chính quyền Mỹ đưa ra là kênh đào Panama đang đứng trước mối nguy bị Trung Quốc kiểm soát. Không phải vô cớ mà chỉ khoảng 2 tháng sau khi ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio công du Panama, tuần qua đến lượt bộ trưởng Quốc Phòng Pete Hegseth sang thăm quốc gia nơi có kênh đào Panama nối từ Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương. Theo AFP, Mỹ và Trung Quốc là hai nước chính sử dụng kênh đào Panama, tuyến đường chiếm 5% thương mại hàng hải của cả thế giới. Riêng đối với Mỹ, 40% lượng contener được chuyên chở qua kênh đào Panama. Đến thăm Panama, ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio kêu gọi chính quyền nước này giảm sự hiện diện của Trung Quốc tại Panama. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Pete Hegseth thì có những phát biểu cứng rắn hơn, khẳng định chính quyền Donald Trump sẽ không để Trung Quốc kiểm soát kênh đào Panama, thậm chí nhắc đến việc Mỹ có « lực lượng chiến đấu hùng mạnh nhất » như để răn đe Bắc Kinh không được thâu tóm kênh đào Panama : « Hoa Kỳ sẽ không cho phép chế độ Cộng Sản Trung Quốc, hoặc bất kỳ quốc gia nào khác, đe dọa hoạt động hoặc tính toàn vẹn của kênh đào. Nhiều công ty có trụ sở tại Trung Quốc vẫn đang kiểm soát cơ sở hạ tầng thiết yếu trong vùng Kênh đào. Điều này mang lại cho Trung Quốc khả năng tiến hành các hoạt động giám sát thông qua kênh đào Panama. Điều này khiến Panama và Hoa Kỳ kém an toàn hơn, ít thịnh vượng hơn và bớt chủ quyền hơn. Và như tổng thống Donald Trump đã nhấn mạnh, tình trạng này là không thể chấp nhận được. Tôi muốn nói rõ ràng. Kênh đào này không phải do Trung Quốc xây dựng. Trung Quốc không được quyền vận hành kênh đào này. Và Trung Quốc sẽ không được quân sự hóa kênh đào này. Cùng với Panama, chúng tôi sẽ giữ kênh đào an toàn để tàu thuyền của mọi quốc gia được lưu thông, nhờ khả năng răn đe của lực lượng chiến đấu mạnh nhất, hiệu quả nhất và đáng gờm nhất trên thế giới ». Sau khi gây sức ép khiến tập đoàn Hồng Kông CK Hutchison ký thỏa thuận nhượng lại quyền khai thác 2 cảng Balboa và Cristobal nằm ở hai đầu kênh đào Panama cho quỹ đầu tư BlackRock của Hoa Kỳ, theo thói quen « được đằng chân, lân đằng đầu », chính quyền Mỹ « dấn thêm 1 bước », đòi tái lập căn cứ quân sự tại Panama với lý do để bảo đảm « an ninh » cho kênh đào. Mỹ cũng đòi là các tàu quân sự của họ phải được ưu tiên di chuyển miễn phí qua kênh đào. Các chuyến tàu quân sự của Mỹ chiếm 0,3% lưu lượng tàu bè qua lại kênh đào Panama. Theo AFP, ngày 08/04, trong cuộc trao đổi với tổng thống Jose Raul Mulino, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Pete Hegseth yêu cầu Panama để Washington tái lập các căn cứ quân sự tại nước này. Dường như sự cứng rắn của Washington đã phát huy tác dụng, buộc Panama phải có sự nhượng bộ quan trọng, cho dù họ không chấp nhận để Washington tái lập căn cứ quân sự của Mỹ tại Panama. Hôm 10/04, chính quyền Panama thông báo cho phép quân đội Mỹ và các công ty quân sự tư nhân được Mỹ ủy quyền, được phép sử dụng một số địa điểm, cơ sở và khu vực được chỉ định để huấn luyện, triển khai các hoạt động nhân đạo và thao dợt. Theo thỏa thuận được ký kết giữa bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ và Panama, có giá trị 3 năm và có thể được triển hạn, các cơ sở nói trên dành cho lực lượng hai nước dùng chung nhưng vẫn thuộc sở hữu của Nhà nước Panama. Chiến tranh thương mại, « món quà tẩm độc » của Donald Trump dành cho Tổ chức Thương mại Thế giới ? Từ khi trở lại Nhà Trắng, tổng thống Mỹ Donald Trump tấn công cả đồng minh lẫn đối thủ xa gần bằng vũ khí thuế quan. Trong khi đó, Tổ chức Thương mại Thế giới WTO chỉ còn cách bất lực đứng nhìn chính quyền Trump ngang nhiên phá hủy những nguyên tắc mà chính Mỹ trước đây đã góp phần tạo dựng để điều tiết thương mại toàn cầu. Cuộc thương chiến do tổng thống Mỹ Donald Trump phát động được ví như món quà sinh nhật « tẩm độc » cho tuổi 30 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO (1995-2025). Từ Genève, thông tín viên Jérémie Lanche ngày 10/04 gửi về bài tường trình : « 'Giống như trong thời kỳ Covid, chẳng ai quan tâm đến Tổ chức Y tế Thế giới, bây giờ thì cũng chẳng ai quan tâm đến Tổ chức Thương mại Thế giới nữa.' Đây chính là điều được gọi là một nhận định không thể bác bỏ. Cédric Dupont là giáo sư về quan hệ quốc tế tại Graduate Institute ở Genève. Văn phòng của ông chỉ cách trụ sở Tổ chức Thương mại Thế giới 500 mét theo đường chim bay. Đây được dự đoán sẽ là nơi tập trung các vụ tranh cãi liên quan đến thuế quan của Hoa Kỳ. Giáo sư Cédric Dupont bình luận : « Quý vị đang nghe bộ trưởng của nhiều nước lên tiếng, tất cả họ đều đang tìm cách đàm phán với Washington. Ở Bruxelles hay ở Bắc Kinh, người ta nghiên cứu xem có thể làm được gì, nhưng tôi nghĩ là không có nhiều người đi vận động hành lang ở Tổ chức Thương mại Thế giới ». Theo Tổ chức Thương mại Thế giới, đòn tấn công của Donald Trump sẽ làm giảm 1% lượng hàng hóa giao dịch trên toàn thế giới trong năm 2025, tức là làm giảm hàng trăm tỷ đô la, trái ngược hoàn toàn với các cam kết của Hoa Kỳ với Tổ chức Thương mại Thế giới. Giáo sư Cédric Dupont nhận định : « Những gì Mỹ đang làm là bất hợp pháp. Nếu họ có vấn đề với một quốc gia, thì họ nên thảo luận trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới, nhưng Mỹ lại không làm như vậy. Đối với họ, Tổ chức Thương mại Thế giới không còn tồn tại ». Washington cũng đang ngăn chặn việc gia hạn nhiệm kỳ của các thẩm phán trong cơ quan phúc thẩm của Tổ chức Thương mại Thế giới, vốn dĩ chịu trách nhiệm giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Tổ chức Thương mại Thế giới bị tê liệt, bị ngó lơ, bị bỏ qua ... nhưng không vì thế mà chết hoàn toàn. Chuyên gia về quan hệ quốc tế của Graduate Institute giải thích thêm : « 85% hoạt động thương mại không phải là thông qua Hoa Kỳ, nên phần còn lại của thế giới có thể nói rằng chúng ta có thể giải quyết vấn đề này bên ngoài và chúng ta sẽ duy trì Tổ chức Thương mại Thế giới để giữ ổn định 85% hoạt động thương mại đó ». Donald Trump chưa bày tỏ mong muốn rời khỏi Tổ chức Thương mại Thế giới. Thế nhưng, đối với các nhà ngoại giao, giả thuyết đó là đáng tin cậy. Họ thận trọng không nói rõ là tới đây điều gì sẽ xảy ra với tổ chức này ». Đòn thuế quan không hồi kết của Donald Trump sẽ dẫn đến những hệ quả nào ? Cuộc đọ sức thuế quan giữa hai nền kinh tế hàng đầu Mỹ - Trung chưa có dấu hiệu ngừng lại, và không báo hiệu điều gì tốt đẹp cho nền kinh tế toàn cầu, cho dù ông Donald Trump đã tạm hoãn áp « thuế đối ứng » với thế giới 90 ngày. Bà Hélène Latzer, giáo sư kinh tế tại Đại học UCLouvain Saint-Louis ở Bruxelles, Bỉ, ngày 09/04 giải thích trên đài RFI Pháp ngữ : « Nếu Hoa Kỳ rơi vào suy thoái và nhìn chung nếu cuộc đọ sức này dẫn đến sự suy thoái chung, thì quả thực Trung Quốc sẽ lâm cảnh không còn thị trường đầu ra chính cho một số lượng hàng xuất khẩu, do đó cũng có nguy cơ Trung Quốc sẽ xoay hướng sang phần còn lại của thế giới để cố gắng bán những mặt hàng mà họ không còn có thể bán một cách dễ dàng cho Hoa Kỳ nữa. Đó là chưa kể Trung Quốc sẽ tìm cách lập tỷ giá mới cho đồng Nhân dân tệ, giúp cho hàng hóa của họ có khả năng cạnh tranh cao hơn bằng cách giảm giá đồng tiền của chính mình ». Nhưng hậu quả không chỉ có vậy. Giáo sư Hélène Latzer giải thích thêm : « Điều mà Trump làm còn là tạo ra một bầu không khí bất trắc, vốn dĩ là điều cực kỳ tệ hại đối với đầu tư của các doanh nghiệp, và xét về dài hạn là đối với các thị trường, đối với toàn thể các đối tác thương mại. Đối với nước Mỹ, thì trong bầu không khí này, thông báo mới cho thấy sự thay đổi đột ngột của Trump đi ngược lại hoàn toàn những gì ông đã nói trước đó. Hiểu theo một cách nào đó, điều Donald Trump đang nói với tất cả thế giới là không bao giờ mọi người có thể thực sự tin tưởng chắc chắn vào thông báo của ông và rằng ông Trump có thể thay đổi vào bất cứ lúc nào. Donald Trump như vậy đang phá vỡ một trật tự thế giới mà Hoa Kỳ đã xây dựng trong suốt 50 năm qua. Và trong mọi trường hợp, đây không phải là điều gì tốt đẹp cho nền kinh tế toàn cầu ». Trung Quốc tham chiến tại Ukraina ? Một hôm sau khi tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky tuyên bố Bắc Kinh biết việc có ít nhất 155 công dân Trung Quốc chiến đấu bên cạnh quân Nga tại Ukraina và chỉ trích Matxcơva đã lôi kéo Bắc Kinh tham chiến, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc hôm 10/04 khuyến cáo các bên « cần có cái nhìn công bằng, hợp lý về vai trò của Trung Quốc và không đưa ra các phát biểu vô trách nhiệm ». Vậy cần nhìn nhận như thế nào về đội quân của Trung Quốc hiện diện trên chiến trường Ukraina ? Trên đài RFI Pháp ngữ, ngày 09/04, chuyên gia về Trung Quốc đương đại Emmanuel Veron, nhà nghiên cứu cộng tác với Trường Hải quân và Viện Ngôn ngữ và Văn hóa phương Đông (INALCO), Paris, giải thích : « Quả thực, trong bối cảnh chiến tranh, như trường hợp ở Ukraina, và cũng như trong cuộc chiến tranh khác, chúng ta có thể thấy rằng có một số chiến binh thuộc nhiều quốc tịch và đến từ nhiều nước khác nhau. Có thể là những người này ký hợp đồng để gia nhập hàng ngũ các lực lượng vũ trang, lực lượng dân quân, hay bán quân sự … Về việc họ làm gián điệp, thì theo tôi cũng không hề mâu thuẫn. Việc này bổ trợ cho việc kia. Hoàn toàn có thể có người ký hợp đồng đến từ một công ty quân sự tư nhân làm việc cho người Nga và họ có thể là tình báo cho Trung Quốc hoặc thậm chí là cho những người khác. Ngoài ra, cũng có khả năng là trong số họ có những người gốc Hoa đến từ miền đông bắc Trung Quốc, có thể là gần Bắc Triều Tiên. Nói tóm lại, trong chuyện này chúng ta vẫn còn một số điều chưa rõ ràng và không chắc chắn. Trái lại, chúng ta có thể khẳng định họ nói tiếng Hoa. Điều này không có nghĩa rằng họ là người Trung Quốc, nhưng họ nói tiếng Hoa. Trong chiến tranh, về cơ bản thì không có logic nào là hoàn toàn chắc chắn. Việc Trung Quốc tham chiến chỉ nên nói kiểu ám chỉ, gián tiếp. Nhưng đúng là người Trung Quốc có hiện diện tại đó. »…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Áp thuế toàn cầu và ý đồ làm suy yếu đồng đô la của tổng thống Trump 11:03
11:03
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai11:03
Donald Trump tuyên chiến thương mại làm thế giới rúng động, đồng đô la mất giá ; Đề nghị mới của Mỹ về khoáng sản Ukraina đe dọa quyền tự quyết của Kiev ; Tập trận bao vây Đài Loan, Bắc Kinh cảnh báo Đài Bắc và Washington ; và Tập đoàn quân sự Miến Điện bị tố thờ ơ với người dân trong thiên tai. Trên đây là những chủ đề chính mục Tạp Chí Thế Giới Đó Đây tuần này ! Thứ Tư 02/04/2025, tổng thống Mỹ Donald Trump khởi động cuộc chiến thương mại quy mô lớn dưới hình thức đánh thuế ồ ạt hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Mỹ nhắm vào 180 quốc gia. Các nước châu Á và châu Âu, bất kể là đồng minh hay kẻ thù là những bên « hứng đòn » nặng nề nhất. Áp thuế hải quan hay thủ thuật để hạ giá đồng đô la ? « Liberation Day » - lời tuyên chiến thương mại của nguyên thủ Mỹ ngay lập tức đã khiến các thị trường tài chính trên thế giới rúng động, và gây bất an cho nhiều chính phủ. Đáng chú ý là một ngày sau thông báo biểu thuế hải quan mới, đồng đô la Mỹ bị trượt giá mạnh, mất đến 2,62%. Nhiều nhà quan sát được hãng tin Anh Reuters dẫn lại, nghi ngờ chính quyền Donald Trump dùng đến các đòn bẩy tài chính, hạ giá đồng đô la để ép buộc các đối tác thương mại « thần phục » các yêu sách của Mỹ. Chiến lược kinh tế của Donald Trump mà người ta có cảm giác là chúng gây tổn hại cho những nước nào bị áp đặt thuế hải quan, đôi khi mang tính cưỡng bức nhưng thực ra chúng cũng đè nặng lên nền kinh tế Mỹ. Để hiểu rõ hơn, nên tham khảo đến trường hợp ông Stephen Miran, cố vấn kinh tế trưởng của ông Trump, và biết xem những thỏa thuận Mar-a-Lago nào dường như đã được đúc kết tại dinh thự của ông Trump trước khi bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống. Trên đài phát thanh France Inter, kinh tế gia trưởng Gilles Moëc tại Công ty Bảo hiểm đa quốc gia AXA, giải thích : « Chúng đã không được đúc kết nhưng đây là một mục tiêu có thể, ít nhất là đối với một bộ phận những người thân cận của ông Trump. Ý tưởng ở đây là hệ thống tài chính quốc tế hiện nay có vẻ như đang gây bất lợi cho các lợi ích của Mỹ. Vì sao ? Vì đồng đô là đồng tiền dự trữ thống trị trên thế giới, điều này được thể hiện bởi nhu cầu liên tục về đô la. Do vậy, đồng tiền này bị tăng giá, gây bất lợi cho khả năng cạnh tranh của Mỹ, cụ thể là đối với ngành sản xuất chế biến của Mỹ. Vì vậy, ý tưởng đưa ra là tìm cách có được từ các đối tác thương mại của Mỹ một thỏa thuận qua đó các ngân hàng trung ương sẽ cam kết nâng giá đồng nội tệ của họ so với đồng đô la chẳng hạn. Đây có thể là một trong số các mục tiêu, chứ không phải là mục tiêu duy nhất, nhưng là mục tiêu có thể của những gì đang diễn ra hiện nay bên trong nội bộ . » Thỏa thuận khoáng sản 2.0 của Trump đe dọa « quyền tự quyết » của Kiev Thứ Sáu, 28/03/2025, chính quyền Donald Trump gởi đến Kiev một đề nghị mới liên quan đến thỏa thuận về khoáng sản Ukraina. Tổng thống Volodymyr Zelensky cho biết ông sẽ sớm trả lời vào cuối tuần này hoặc trễ nhất là đầu tuần tới, thứ Hai, 07/04. Tuy nhiên, theo đánh giá của báo Anh The Spectator, đây sẽ là một « thỏa thuận độc hại » cho Ukraina. Trong bản đề nghị mới dài 58 trang và để buộc Ukraina phải hoàn trả không thiếu một xu số tiền viện trợ quân sự và nhân đạo mà Mỹ cấp từ đầu cuộc chiến xâm lược của Nga năm 2022, chính quyền Trump đã có những đề nghị khắt khe với Ukraina. Theo đó, một nửa nguồn thu từ hoạt động khai thác khoáng sản, dầu khí và thậm chí các cơ sở hạ tầng đường sắt thành đô la để đưa về Mỹ. Mọi sự chậm trễ sẽ phải chịu hình phạt tài chính. Ngoài ra, Mỹ còn muốn thành lập một hội đồng giám sát để quản lý điều gọi là « Quỹ đầu tư chung », được cung cấp hoàn toàn bằng tiền hoàn trả viện trợ của Mỹ. Nhưng hội đồng gồm 5 thành viên này, có đến 3 người là Mỹ và mọi quyết định được thông qua theo đa số. Điều đó tương đương với việc trao cho Mỹ toàn quyền phủ quyết. Cũng theo văn bản này, các hoạt động tái đầu tư của Kiev từ lợi nhuận thu được trên lãnh thổ Ukraina sẽ phải tùy thuộc vào thiện ý của Mỹ, và nhất là Hoa Kỳ sẽ nhận được 4% tiền lãi chừng nào Ukraina vẫn chưa trả hết nợ. Đối với những khoản đầu tư mới về tài nguyên khoáng sản và cơ sở hạ tầng, Hoa Kỳ phải được ưu tiên. Điều này có nghĩa là Kiev chỉ có thể mở gọi thầu khi nào có sự từ chối của nhà đầu tư Mỹ, bên có quyền ưu tiên ký kết các hợp đồng. Kiev có trách nhiệm chia sẻ mọi chi tiết các cuộc đàm phán chiến lược với chính phủ Mỹ và sẽ không thể thay đổi đề nghị của mình với các nhà đầu tư nước ngoài trong vòng một năm sau khi phía Mỹ từ chối. Dự thảo thỏa thuận cũng cấm các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Ukraina hợp tác với các khách hàng mà Washington xem như là « đối thủ chiến lược ». Yêu cầu này của Mỹ xem như « khép chặt » cánh cửa khả năng Ukraina gia nhập Liên Hiệp Châu Âu, điều mong mỏi của người dân Ukraina. Tóm lại, đây là một thỏa thuận vô hạn định. Ukraina không thể sửa đổi cũng không thể chấm dứt nếu không có sự đồng thuận của Mỹ. Đổi lại, Ukraina chẳng được hưởng gì mà còn phải mắc nợ Mỹ đến hơn 110,9 tỷ đô la. Những yêu sách mà Mỹ đưa ra có nguy cơ tạo ra một tiền lệ nguy hiểm, với rủi ro là nhiều nước khác cũng sẽ đòi hoàn trả tiền viện trợ đã cấp cho Ukraina. Và điều tệ hại nhất là trong mọi trường hợp, tổng thống Zelensky không thể bác bỏ thỏa thuận này vì e sợ gây ra một xung đột dữ dội khác với Donald Trump như những gì đã diễn ra ở Nhà Trắng hồi cuối tháng 02/2025. Marine Le Pen bị tước quyền ứng cử : Trump tỏ thông cảm Ngày 31/03/2025, tư pháp Pháp tuyên án bà Marine Le Pen, nguyên chủ tịch đảng cực hữu Pháp Tập Hợp Dân Tộc (RN) 4 năm tù và tước quyền ứng cử của bà trong năm năm vì tội « biển thủ công quỹ ». Bà Le Pen nhanh chóng lên án một « quyết định mang tính chính trị », đồng thời yêu cầu nhanh chóng mở phiên xử phúc thẩm trước kỳ bầu cử tổng thống 2027. Nếu như vụ việc khiến « chính trường Pháp nhốn nháo », truyền thông nước ngoài bàn tán rộng rãi, thì điều đáng chú ý là bà Le Pen đã được sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhiều lãnh đạo chính phủ cực hữu trên thế giới như từ Ý, Hungary, Hà Lan cho đến nhiều chính khách, nhân vật nổi tiếng ở Mỹ như Elon Musk và đặc biệt là từ cả tổng thống Mỹ Donald Trump. Thông tín viên Guillaume Naudin tường trình từ Washington : « Tổng thống Mỹ đã so sánh bản án này với trường hợp cá nhân ông. Xin nhắc lại, điều đáng nhớ, ông là vị tổng thống đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ bị kết án về tội hình sự và mặc dù vậy, ông vẫn có thể ra tranh cử và đã đắc cử. Vào cuối ngày 31/03, từ phòng Bầu Dục, ông phát biểu : "Vụ án này là rất lớn và tôi biết rõ về vụ việc này. Có nhiều người nghĩ rằng bà ấy sẽ không bị kết án. Thế nhưng, bà bị cấm không được ra tranh cử trong vòng năm năm vào lúc bà ấy đang là ứng viên và hiện dẫn đầu cuộc đua. Chuyện này tương tự như ở đất nước chúng ta. Chúng giống như ở nước chúng ta đến lạ lùng". Trước đó, phát ngôn viên của bộ Ngoại Giao Mỹ đã bày tỏ quan ngại sau khi phủ nhận bà Marine Le Pen thuộc phe cực hữu ». Tập trận bao vây Đài Loan : Trung Quốc trắc nghiệm Donal Trump Trong hai ngày 01 và 02/04/2025, quân đội Trung Quốc tổ chức các cuộc tập trận quy mô lớn với sự tham gia của các binh chủng hải – lục – không quân, giả định phong tỏa và tấn công các cơ sở hạ tầng chiến lược của Đài Loan. Giới quan sát nhận định đây không chỉ là một lời cảnh báo Bắc Kinh gởi đến Đảng Dân Tiến, theo đó, « Trung Quốc không khoan nhượng đối với bất kỳ hoạt động ly khai nào », mà còn là một thông điệp trực tiếp dành cho Mỹ và các đồng minh của nước này trong vùng. Nhà nghiên cứu về Trung Quốc học, Alice Ekman, giám đốc nghiên cứu Viện Nghiên cứu An ninh Liên Hiệp Châu Âu (EUISS) trên đài truyền hình ARTE nhận định : « Từ thời chính quyền Trump hay Biden, Trung Quốc luôn có những phản ứng như thế mỗi khi một quan chức chính quyền Mỹ có chuyến công du trong khu vực, để thảo luận vấn đề an ninh, mỗi khi có các cuộc tập trận chung giữa Mỹ với các đồng minh trong vùng hay khi Mỹ có một phát biểu chính thức nào đó không làm hài lòng Bắc Kinh. Đó là cách vừa để nói rằng "Hãy cẩn thận, chúng tôi đang ở đây, quý vị chớ nên vượt qua các lằn ranh đỏ" vừa muốn trắc nghiệm phản ứng của Mỹ. Đương nhiên, ở đây có một chính quyền Trump mới, và do vậy một lần nữa là để thử xem chính quyền Trump II sẽ phản ứng như thế nào. Như quý vị đề cập đến, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ có chuyến thăm khu vực. Có thể nói, như thường lệ, các hoạt động tập trận dọa dẫm quân sự này diễn ra đều đặn và có một lô-gic nhất định. Đồng thời, chúng còn mang một ý nghĩa đặc biệt về việc gia tăng cường độ trắc nghiệm để xem chính quyền Trump sẽ phản ứng ra sao . » Miến Điện : Quân sự - Dân sự, bên rủng rỉnh tiền, bên thì rỗng túi ! Ngày 28/03/2025, Miến Điện – trong tình trạng nội chiến từ gần 4 năm qua – hứng lấy một trận động đất kinh hoàng làm hơn 3.000 người thiệt mạng, hơn 4.500 người khác bị thương và còn hơn 350 người bị mất tích, buộc lãnh đạo chính quyền quân sự tướng Min Aung Hlaing phải ban bố tình trạng khẩn cấp và kêu gọi quốc tế viện trợ - một điều hiếm có. Tuy nhiên, tờ báo tị nạn The Irrawaddy, có trụ sở tại Chiang Mai, Thái Lan, đã lên án chính quyền Naypiydaw tăng chi cho quân sự (vài ngày trước khi xảy ra trận động đất) nhân danh tính cấp thiết của việc duy trì sự « ổn định quốc gia » mà không dành lấy một xu cho các dịch vụ khẩn cấp. Hay như vào lúc các phe nổi dậy đơn phương tuyên bố hưu chiến để tập trung công tác cứu hộ, thì tập đoàn quân sự vẫn tiếp tục chiến dịch không kích trước khi phải ban hành lệnh hưu chiến trước sức ép từ các nước láng giềng. Trước sự thờ ơ của tập đoàn quân sự, tờ báo độc lập Miến Điện lưu vong này nghi ngờ khả năng viện trợ nhân đạo có thể đến được tay người dân, nhất là những người sống ở những nơi được cho là cứ địa quân kháng chiến, chống tập đoàn quân sự. Nạn tham nhũng và năng lực quản lý tồi là những căn bệnh trầm kha. Ngăn cản, tìm cách kiểm soát và biển thủ hàng viện trợ nhân đạo là những thủ thuật quen thuộc của tập đoàn quân sự Miến Điện, như những gì từng xảy ra trong đợt thiên tai lốc xoáy năm 2008, làm hơn 100 ngàn người chết. Thế nên, vào lúc các nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Malaysia … cam kết gởi hoặc đã chuyển viện trợ tới, tờ Irrawaddy cảnh báo : Hãy cẩn trọng khi hợp tác với tập đoàn quân sự ! Việc « cung cấp hỗ trợ nhân đạo không nhất thiết có nghĩa là khuyến khích chế độ ». Thế giới nên đoàn kết với người dân Miến Điện chứ không phải với những kẻ « tội đồ » chiến tranh của Naypyidaw !…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Khẩu hiệu MAGA mới của Groenland : « Làm cho người Mỹ cuốn gói » 10:48
10:48
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai10:48
Bất chấp sự phản đối của cả chính quyền và cư dân hòn đảo tự trị của Đan Mạch, phó tổng thống Mỹ JD Vance hôm thứ Sáu 28/03/2025 cùng phu nhân Usha Vance và bộ trưởng Năng lượng Mỹ Chris Wright vẫn đến Groenland. Tuy nhiên, do bị lên án là « can thiệp », « gây áp lực không thể chấp nhận » cho Groenland, những « vị khách không mời mà đến » này cuối cùng đã phải rút gọn tối đa chuyến đi. Phái đoàn Mỹ chỉ đến căn cứ quân sự Pituffik của Mỹ, nằm trên bờ biển phía tây bắc của Groenland, mà theo chính quyền Trump, là để « được báo cáo về các chủ đề có liên quan đến an ninh ở Bắc Cực » và gặp gỡ đội quân của Mỹ. Trên thực tế, căn cứ Pituffik của Mỹ là tiền đồn phòng thủ tên lửa của Washington, đặc biệt là để chống lại Nga, vì quỹ đạo ngắn nhất của tên lửa từ Nga tới Hoa Kỳ là bay qua Groenland. Hôm thứ Năm 27/03, theo AFP, bộ trưởng Năng Lượng Mỹ Chris Wright phát biểu trên Fox News : « Ở đó có hệ thống radar rất quan trọng để phát hiện các hoạt động. Nếu các vũ khí hạt nhân đe dọa Hoa Kỳ được phóng đi, chúng sẽ không bay qua Đại Tây Dương hay Thái Bình Dương, mà sẽ bay qua vùng cực ». Tuy nhiên, chuyến đi « tự ý » của phái đoàn Mỹ diễn ra trong bối cảnh tổng thống Mỹ đòi « mua » Groenland, thậm chí để ngỏ khả năng dùng vũ lực, khiến công luận vùng tự trị Groenland nói riêng và chính quyền trung ương Đan Mạch, bức xúc, thậm chí làm dấy lên làn sóng bài Mỹ. Trên đài RFI Pháp ngữ ngày 27/03, nhà tư vấn Damien Degeorges, chuyên gia về Bắc Cực, giải thích : « Đây không còn là giai đoạn mà mọi người tỏ ra khoan dung, độ lượng. Mới đây người dân Groenland đã biểu tình tại thủ đô Nuuk, nói rằng họ không thể chịu đựng được nữa. MAGA, chữ viết tắt của « Make America Great Again » (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại), thậm chí giờ đây còn được chế thành khẩu hiệu mới « Make America Go Away » (Làm cho Mỹ cút đi). Căng thẳng đã lên đến mức một dân biểu Đan Mạch, cũng là chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng của Quốc Hội, đã đòi đóng cửa lãnh sự quán của Mỹ tại Nuuk, càng sớm càng tốt. Căng thẳng như hiện nay là chưa từng có ». Chiến thuật đàm phán kiểu « được đằng chân lân đằng đầu » của Nga Liên quan đến chiến tranh Ukraina, vào tuần qua, tại cuộc họp thượng đỉnh hôm 27/03, ở Paris, các nước đồng minh châu Âu của Ukraina đều dứt khoát chống lại việc bãi bỏ các lệnh trừng phạt nhắm vào Nga. Thủ tướng Anh Keith Starmer thậm chí cho biết liên minh các nước tình nguyện hỗ trợ Ukraina bảo đảm an ninh đã thảo luận về cách tăng cường các lệnh trừng phạt Nga. Tuyên bố được đưa ra trong bối cảnh Washington hôm 25/03 loan báo Nga và Ukraina đã chấp nhận một lệnh ngừng bắn ở Hắc Hải và chính quyền Donald Trump sẵn sàng hỗ trợ Nga xuất khẩu nông sản, phân bón ra các thị trường trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn như thường lệ, Nga cho thấy kiểu hành xử « được đằng chân, lân đằng đầu ». Trả lời phỏng vấn đài RFI Pháp ngữ ngày 25/03, nhà nghiên cứu Cyrille Bret của Viện Montaigne nhấn mạnh rằng Nga đặt ra các điều kiện mới cho việc thi hành thỏa thuận và không đưa ra bất kỳ cam kết cụ thể nào : « Nhóm công tác đã thảo luận về quyền tự do hàng hải ở Biển Đen, và Nga diễn giải điều này như là quyền tự do thương mại cho tất cả các công ty của Nga trong lĩnh vực công nghiệp nông nghiệp, tức là xem đây là một cuộc thương lượng về các lệnh trừng phạt. Điều này có nghĩa là Nga đang phá hoại các cuộc đàm phán (được dự kiến ban đầu). Các cuộc đàm phán (được lên kế hoạch ban đầu) không phải là để bàn về việc dỡ bỏ lệnh trừng phạt (Nga). Các cuộc đàm phán lẽ ra phải tập trung vào lệnh ngừng bắn giới hạn theo địa lý và về quân sự. Nga đã thêm lệnh ngừng bắn ở Hắc Hải vào lệnh ngừng bắn nói trên, với rất nhiều điều kiện liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp -thực phẩm, xuất khẩu, tài chính trong lĩnh vực này, và cả việc kết nối các ngân hàng nông nghiệp của Nga với hệ thống thanh toán quốc tế. Trên thực tế, các điều kiện do Nga đặt ra cho thấy rõ ràng rằng, thật đáng tiếc là chuyện này có rất ít cơ hội được thực hiện lâu dài ». Estonia cải tổ Hiến Pháp để thắt chặt kiểm soát người Nga và Belarus Tại vùng Baltic, không chỉ tích cực tăng cường khả năng quốc phòng để đối phó với nguy cơ xâm lược quân sự từ Nga, chính quyền Estonia còn thông qua dự luật sửa đổi khẩn cấp Hiến Pháp, không cho những người đến từ các nước ngoài Liên Âu và NATO tham gia các kỳ bầu cử tại Estonia. Biện pháp này được cho là chủ yếu nhằm thắt chặt kiểm soát người Nga và Belarus sống tại Estonia. Từ Vilnius, thông tín viên RFI Marielle Vitureau trong vùng Baltic ngày 26/03 cho biết thêm : « Đối với 61 dân biểu Estonia khởi xướng đề xuất sửa đổi Hiến Pháp, đây là vấn đề an ninh. Quyền bỏ phiếu chỉ để dành cho những công dân chia sẻ các giá trị dân chủ với Nhà nước Estonia. Quyết định này như vậy sẽ liên quan đến 80.000 công dân Nga đang cư trú tại Estonia. Số lượng công dân Nga sinh sống tại Estonia đã giảm nhẹ trong những năm gần đây. Nhìn chung, quyền của các công dân Nga và Belarus, khoảng 200.000 người trong một khu vực có dân số 6 triệu người, đang ngày càng bị hạn chế. Ở Estonia, họ không còn được giữ giấy phép sử dụng súng. Tại Litva, công dân Nga bị cấm mua bất động sản trừ khi họ là thường trú nhân. Một dự luật dự kiến cho phép chính quyền thu hồi giấy phép cư trú của những người này nếu họ đến Nga hoặc Belarus nhiều hơn một lần trong mỗi quý. Để tránh nguy cơ công dân nước mình bị các cơ quan tình báo Nga tuyển dụng, chính quyền các nước Baltic muốn làm mọi cách có thể để giảm thiểu sự hiện diện của những người không trung thành với đất nước, có kết nối với Matxcơva. Đó là những người bị xem là mối đe dọa chính tại khu vực ». Thuế quan ô tô : Ai là nạn nhân mới của TT Mỹ Donald Trump ? Về thương mại, tổng thống Mỹ Donald Trump vẫn trung thành với loại « vũ khí thuế quan ». « Đấu trường » mới lần này là lĩnh vực sản xuất ô tô trên quy mô toàn cầu. Mức thuế quan 25% của Donald Trump không chỉ nhắm đến xe ô tô thành phẩm mà còn áp vào các linh kiện, phụ tùng xe hơi, trong khi ngành chế tạo phụ tùng ô tô phụ thuộc vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo AFP, Nhà Trắng nhấn mạnh rằng trong số 16 triệu xe mới được bán tại Hoa Kỳ vào năm 2024, một nửa được lắp ráp trong nước nhưng chỉ có 40-50% linh kiện được sản xuất trên lãnh thổ Mỹ. Theo chính quyền Mỹ, thâm hụt thương mại đối với phụ tùng ô tô đã lên tới 93,5 tỷ đô la. Mức thuế 25% của Donald Trump đối với ô tô được cho là nhằm thúc đẩy ngành sản xuất của Mỹ, thế nhưng nhiều hãng xe Mỹ tỏ ra khá lo lắng. Ngay cả Elon Musk, chủ nhân của hãng xe điện Tesla, một người thân cận với chủ nhân Nhà Trắng, cũng thừa nhận trên mạng X là thuế quan sẽ tác động nhiều đến chi phí sản xuất của Tesla, do Tesla phải nhập khẩu nhiều linh kiện sản xuất từ nước ngoài. Trên thực tế, ai là người chịu nhiều thiệt hại nhất từ lệnh thuế quan mới của Donald Trump ? Trên đài RFI Pháp ngữ ngày 27/03, kinh tế gia Flavien Neuvy, giám đốc Đài quan sát ô tô Cetelem phân tích : « Đó là người tiêu dùng Mỹ, những người Mỹ đi xe ô tô, bởi vì theo một cách nào đó thuế nhập khẩu này sẽ được tính vào giá xe, như vậy là chính họ sau này sẽ là những người phải gánh chịu phần thuế hải quan đó. Và tất nhiên là mọi nhà sản xuất ô tô và xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Mọi người nói nhiều đến thiệt hại đối với các nhà sản xuất ô tô của châu Âu, nhất là các hãng xe của Đức, bởi vì Đức xuất khẩu rất nhiều xe sang Hoa Kỳ, đặc biệt là dòng xe cao cấp. Nhưng các nhà sản xuất xe của châu Á cũng bị tác động : rất nhiều hãng xe của Nhật Bản, hay của Hàn Quốc. Như vậy, dĩ nhiên là có thể nói rằng toàn bộ ngành công nghiệp ô tô bị ảnh hưởng do quyết định này, một quyết định đã được mọi người dự đoán từ trước, nhưng dẫu sao thì vẫn rất thô bạo. Chúng ta cần hiểu là ngành công nghiệp ô tô là một ngành công nghiệp mà chuỗi sản xuất tạo giá trị, tức là mọi bên liên quan tham gia vào dây chuyền chế tạo ô tô, được toàn cầu hóa rất mạnh. Điều này có nghĩa là các nhà sản xuất của Hoa Kỳ nhập khẩu rất nhiều linh kiện được sản xuất từ khắp nơi trên thế giới. Chính vì thế mà họ cũng sẽ gián tiếp chịu tác động từ các khoản thuế nhập khẩu này và chắc chắn các hãng xe Mỹ cũng sẽ phải tăng giá ô tô. Như vậy đây thực sự không phải là một tin tốt đẹp cho bất kỳ ai ». Iran công bố thêm một căn cứ tên lửa ngầm trong lòng đất Nhìn sang Iran, trong bối cảnh căng thẳng giữa Teheran với Mỹ vẫn chưa dịu lại, một hôm sau khi tuyên bố để ngỏ khả năng « đối thoại » với Washington, lực lượng Vệ Binh Cách Mạng hôm 25/03 công bố một căn cứ tên lửa ngầm trong lòng đất, với các tên lửa có thể phóng sang tận Israel và các căn cứ quân sự của Mỹ trong khu vực. Từ Teheran, thông tín viên Siavosh Ghazi cho biết thêm : « Đây chắc hẳn là một trong những căn cứ tên lửa ngầm lớn nhất được Iran tiết lộ trong những năm gần đây. Trong những hình ảnh được truyền hình nhà nước phát đi, mọi người có thể nhìn thấy các đường hầm lớn tới mức hai xe tải có thể chạy cùng lúc, với hàng trăm tên lửa sẵn sàng được phóng đi. Theo các bình luận, đây là những tên lửa có độ chính xác cao và có khả năng bắn tới tận Israel hoặc các căn cứ của Hoa Kỳ trong khu vực. Trong những tháng gần đây, một số căn cứ khác cũng đã được Teheran công bố để thể hiện năng lực quân sự của Iran. Vụ công bố lần này diễn ra khi tổng thống Mỹ Donald Trump kêu gọi Teheran hạn chế chương trình hạt nhân và tên lửa đạn đạo. Teheran không phản hồi bức thư mà tổng thống Mỹ gửi cho họ, nhưng ngoại trưởng Iran đã nhiều lần tuyên bố rằng Teheran từ chối mọi cuộc đàm phán nếu bị đe dọa ».…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Thách thức về tài chính, cốt lõi của kế hoạch tái vũ trang Liên Hiệp Châu Âu 12:53
12:53
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai12:53
Tuần qua đánh dấu nhiều sự kiện đáng chú ý đối với quốc phòng của Liên Hiệp Châu Âu nói chung và nhiều nước thành viên nói riêng như Pháp, Đức, Estonia … Tại Pháp, nước duy nhất trong Liên Âu sở hữu vũ khí hạt nhân, tổng thống Macron hôm 18/03 thông báo các khoản đầu tư mới trong lĩnh vực quốc phòng, đặc biệt là nhằm tăng cường năng lực răn đe hạt nhân của Pháp. Chính phủ sẽ gia tăng và thúc đẩy đặt mua chiến đấu cơ Rafale thế hệ mới của tập đoàn Dassault có tên lửa siêu thanh mang đầu đạn hạt nhân để trang bị cho Không quân. Nước láng giềng Đức thì ghi nhận một « bước ngoặt lịch sử » với kế hoạch tái vũ trang Bazooka, với hơn 1.000 tỷ euro đầu tư vào quốc phòng trong thập kỷ tới. Nhìn sang Estonia, vùng Baltic, cũng vào ngày 18/03, thủ tướng Kristen Michal, trên mạng X tuyên bố sẽ tăng chi tiêu quốc phòng lên 5% GDP kể từ năm 2026 để đối phó với mối đe dọa từ Nga, nhằm mục tiêu « biến mọi cuộc xâm lăng nhắm vào Estonia thành bất khả thi ». Liên quan đến toàn khối Liên Hiệp Châu Âu, hôm 19/03 Ủy ban Châu Âu đề xuất Sách trắng Quốc Phòng để bảo đảm an ninh cho 27 nước, hướng đến chấm dứt sự lệ thuộc quân sự vào Mỹ. Trên đài RFI Pháp ngữ đúng ngày 20/03, ít giờ trước khi diễn ra thượng đỉnh quốc phòng châu Âu tại Bruxelles, chuyên gia Sébastien Maillard, cố vấn đặc biệt của Viện Jacques Delors, cộng tác với cơ quan tư vấn Chatham House của Anh, nhấn mạnh nguồn tài chính vẫn là thách thức lớn nhất đối với Liên Hiệp Châu Âu : « Chúng ta thấy rõ là cùng với cuộc chiến ở Ukraina, thì đã đến lúc chúng ta thực hiện ý tưởng đã có từ trước này, nhưng tất nhiên việc này đặt ra một thách thức vô cùng lớn đối với 27 nước thành viên Liên Hiệp Châu Âu. Không chỉ là cần phải có sự nhất trí, bởi vì chúng ta đều biết là có một số nước vẫn ngại ngần, nhưng trước hết là vấn đề tài chính. Và tôi tin rằng một trong những cuộc thảo luận quan trọng tại Hội Đồng Châu Âu ở Bruxelles ngày 20/03 là tìm kiếm nguồn tài chính. Không phải tất cả các quốc gia đều có khả năng vay giống nhau, đặc biệt là Pháp, Ý hoặc Tây Ban Nha, những nước vốn đã mắc nợ rất nhiều, nên muốn có khoảng vay chung. Chính vì thế, đây là một cuộc thảo luận khó khăn về cách tìm ra phương tiện phù hợp hoặc Ngân hàng Đầu tư Châu Âu có lẽ cũng phải thay đổi quy định để có thể tham gia nhiều hơn trong lĩnh vực này. Ngoài ra còn có đầu tư của giới tư nhân. Có hàng chục khả năng được đưa ra thảo luận, nhưng dẫu sao thì cốt lõi của vấn đề vẫn phải là tìm ra nguồn tài chính phù hợp cho các dự án chung này ». Cách nay ít ngày, các nước thành viên Liên Hiệp Châu Âu đã tán thành kế hoạch của chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, Ursula von der Leyen, về việc huy động khoản tiền lên đến 800 tỷ euro để đầu tư vào quốc phòng, tái vũ trang Liên Âu trong vòng 5 năm tới đây. Thế nhưng, điều cốt lõi rốt cuộc trong cuộc họp hôm qua tại Bruxelles vẫn chưa được giải quyết. Thủ tướng Đức mãn nhiệm, Olaf Scholz, vẫn kiên quyết bác bỏ đề xuất « vay chung ». Liệu Liên Âu có thể vượt lên các bất đồng để cùng hướng đến một khoản vay chung, như đã từng đạt được hồi đại dịch Covid, thời bà Angela Merkel làm thủ tướng Đức ? Theo AFP, tổng thống Pháp Emmanuel Macron hôm 20/03 trong buổi họp báo sau cuộc họp thượng đỉnh tại Bruxelles, bày tỏ hy vọng là vị thủ tướng Đức tương lai, Friedrich Merz, sẽ đưa ra quyết định khác so với người tiền nhiệm Olaf Scholz. Kế hoạch tái vũ trang Bazooka và quốc định mang tính lịch sử của Quốc Hội Đức Ngay tại Đức, trong tuần qua, có một quyết định của Hạ Viện (18/03) và Thượng Viện (21/03), được xem là « mang tính lịch sử ». Kế hoạch tái vũ trang của thủ tướng tương lai Friedrich Merz đã được thông qua, cho phép chính phủ Đức chi tiêu không bị hạn chế vào tái vũ trang và hiện đại hóa đất nước, chẳng hạn không bị hạn chế khả năng vay tiền để đầu tư vào quân sự. Theo ước tính, hơn 1.000 tỷ euro sẽ được đầu tư trong 10 năm tới đây. Công luận Đức nhìn nhận thế nào về kế hoạch Bazooka và khả năng nước Đức vay những khoản tiền khổng lồ để đầu tư vào quốc phòng ? Từ Berlin, thông tín viên Pascal Thibaut ngày 20/03 gửi về bài tường trình : Một thanh niên người Đức đang đứng trước Cổng Brandenburg tỏ vẻ hoài nghi và nói : « Theo tôi, đây là những món nợ sẽ đeo đuổi chúng ta qua nhiều thế hệ. Đến đời các con cháu chúng ta cũng sẽ còn phải trả nợ. Và điều đó sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả ». Bazooka, kế hoạch tái vũ trang của chính phủ không thuyết phục được thanh niên này. Với anh, sẽ là không cần thiết nếu như tiền đóng thuế của người dân Đức trước đây không bị lãng phí. Đa phần người dân Đức tán thành việc vay tiền để tái thiết đất nước, nhất là khôi phục cơ sở hạ tầng. Nhưng Dirk Schneemann, chủ tịch của Nhóm kinh tế Pháp-Đức, đặt câu hỏi liệu bù đắp như vậy đã đủ hay chưa. Ông nói : « Đó là một khoản ngân sách, không hẳn là để xây dựng tương lai, mà một phần lớn trong số đó là để bù đắp cho những gì nước Đức đã bỏ lỡ trong những thập kỷ vừa qua ». Kế hoạch đầu tư khổng lồ của Đức tạo thuận lợi cho chi tiêu quân sự, bởi vì chính phủ sẽ không còn bị hạn chế khả năng vay tiền để chi tiêu quân sự. Đã đến lúc phải làm mọi điều cần thiết. Stéphane Beemelmans, cựu bộ trưởng Quốc Phòng nhận định : « Kế hoạch mang lại cho Đức rất nhiều tiền, nhưng liệu nước này có sử dụng số tiền này cho quốc phòng của châu Âu hay không, hay chỉ là để gia tăng phương tiện cho riêng quân đội Đức ? Làm như vậy có lẽ là chưa đủ ». Còn người thanh niên đứng trước Cổng Brandebourg mà chúng tôi đã nhắc đến ở trên, người phản đối việc vay thêm, thì tỏ ra ủng hộ việc dành khoản tiền đó cho riêng quân đội Đức. Anh nói : « Trước những gì nước Mỹ đang làm hiện nay, điều quan trọng là chúng ta phải củng cố, tăng cường quân đội để đảm bảo cho an ninh của chúng ta ». Hiện nay, cứ 6 người Đức thì có 1 người tin tưởng vào Hoa Kỳ. 7/10 người thì ủng hộ việc thành lập một quân đội riêng của châu Âu ». Litva muốn châu Âu nỗ lực vũ trang nhiều hơn Tại Litva, quốc gia nhỏ bé nằm sát nước Nga, trước mối đe dọa quân sự từ láng giềng Nga, đông đảo người dân ủng hộ kế hoạch tái vũ trang của Liên Âu trong bối cảnh chính quyền Mỹ thời Donald Trump có nguy cơ rời khỏi NATO, trong khi hiện giờ Mỹ đóng góp tới 70% cho chi tiêu của Liên Minh Bắc Đại Tây Dương. Từ Vilnius, thông tín viên Marielle Vitureau ngày 20/03, một hôm sau khi Ủy Ban Châu Âu đề xuất Sách trắng Quốc phòng, gửi về bài phóng sự : « Chiến tranh kéo dài suốt 3 năm qua. Litva hiện giờ đã chi nhiều tiền hơn để củng cố, tăng cường quốc phòng, và nhiều người dân ở quốc gia này muốn châu Âu nỗ lực nhiều hơn. Một người đàn ông tên là Giedrius, đang dắt chó đi dạo, ông nói : « Châu Âu phải mạnh mẽ, chúng ta không được phụ thuộc vào bất kỳ ai và phải có khả năng tự bảo vệ mình. Chúng ta phải làm mọi điều có thể để ngăn chặn kẻ thù có ý định tấn công chúng ta ». Ủy viên Quốc Phòng châu Âu, Andrius Kubilius, là người Litva. Ông Andrius Kubilius vừa trình bày Sách trắng Quốc phòng để bảo đảm Liên Âu có khả năng tự bảo vệ mình. Arturas đang làm việc liên quan đến tái thiết Ukraina. Ông bày tỏ thái độ ủng hộ Sách trắng Quốc phòng và nói : « Mối đe dọa nhắm vào châu Âu, chứ không nhắm vào nước Mỹ. Chúng ta cần phải chuẩn bị để bảo vệ mình. Tôi nghĩ là chúng ta có đủ nguồn lực để tự vệ. Ở các nước dân chủ, mọi điều đều diễn ra chậm hơn một chút, nhưng rồi thì cuối cùng chúng ta cũng sẽ chiến thắng ». Bà Ruta, một giám đốc dự án tiếp thị, bước đi nhanh nhẹn với một tách cà phê trên tay. Việc Donald Trump trở lại nắm quyền ở Mỹ và xích lại gần với chính quyền Nga đã làm thay đổi tình thế. Bà Ruta nói : « Từ nay, Liên Hiệp Châu Âu phải dẫn đầu và đảm nhận trách nhiệm của mình ». Từ lâu nay, Liên Hiệp Châu Âu và quốc phòng là hai khái niệm trái ngược nhau ở Litva. Nhưng hiện giờ, có một sự thay đổi đang diễn ra ». Ý : Nhiều người không mặn mà với kế hoạch tái vũ trang Liên Âu Thủ tướng Ý Giorgia Meloni hôm 18/03 kêu gọi Liên Âu tăng cường khả năng phòng thủ, nhưng xem việc thiết lập an ninh bền vững, mà không có Hoa Kỳ, là điều « không tưởng ». Công luận Ý cũng bị chia rẽ về việc tái vũ trang Liên Âu. Nằm cách xa nước Nga hơn so với các nước vùng Baltic, người dân Ý dĩ nhiên ít cảm thấy mối đe dọa quân sự trực tiếp từ chế độ Putin hơn so với người dân Litva. Có lẽ cũng vì thế mà nhiều người dân Ý không mấy ủng hộ kế hoạch tái vũ trang Liên Hiệp Châu Âu. Từ Roma, thông tín viên Anne Le Nir ngày 19/03 gửi về bài phóng sự : « Đa số những người chúng tôi gặp phía bên ngoài một trường học ở khu trung tâm thành phố Roma đều tỏ ra rất thận trọng về viễn cảnh đẩy nhanh quá trình sản xuất thiết bị quân sự. Đối với ông Federico, khoảng 40 tuổi, giáo viên lịch sử, nghệ thuật đàm phán phải là mối ưu tiên hàng đầu. Ông nói : « Tái vũ trang chẳng để làm gì cả. Theo kế hoạch đã được trình bày, tiền sẽ được rút từ túi của công dân Liên Hiệp Châu Âu. Chỉ có vậy thôi. Điều cần thiết là một quá trình ngoại giao lâu dài ». Bà Clara, một phụ nữ năng động đã lên chức bà, có cùng quan điểm với ông Federico. Bà nói : « Từ 3 năm nay chúng ta cấp vũ khí cho một nước (Ukraina), nhưng đến nay thì số vũ khí đó vẫn chưa mang lại được một giải pháp nào. Tôi là người ủng hộ Liên Hiệp Châu Âu, nhưng chúng tôi (nước Ý) có quyền không ủng hộ một số lựa chọn của Liên Âu. Liên Hiệp Châu Âu được thành lập dựa trên các giá trị hòa bình. Tôi ủng hộ việc quay trở lại với những giá trị đó ». Trong khi đó, Fabio, một ông bố trẻ 30 tuổi, khẳng định ủng hộ kế hoạch tái vũ trang của Châu Âu. Fabio chia sẻ : « Một hệ thống phòng thủ của Liên Âu chắc chắn là cần thiết. Tôi cho rằng chúng ta đang quá tin tưởng vào Hoa Kỳ, đặc biệt là về quân sự ». Theo các cuộc thăm dò ý kiến mới đây, 2/3 số người Ý được hỏi phản đối kế hoạch tái vũ trang châu Âu. Đa phần họ là những người ủng hộ Liên Đoàn Phương Bắc của Matteo Salvini hoặc Phong Trào Năm Sao của Giuseppe Conte ». Cuộc họp của chỉ huy quân sự hơn 30 nước châu Âu : 20 nghìn quân Anh và châu Âu sẵn sàng sang Ukraina Hỗ trợ Ukraina vẫn là chủ đề được châu Âu quan tâm, đặc biệt Anh Quốc. Dẫu đã ra khỏi Liên Hiệp Châu Âu cách nay 5 năm, nhưng Luân Đôn rất tích cực phối hợp với các nước châu Âu về hợp tác quân sự để hỗ trợ Ukraina. Hôm 20/03/2025, trong khi Liên Âu tổ chức thượng đỉnh quốc phòng thì tại Luân Đôn, các tham mưu trưởng quân đội của Anh và đồng nhiệm của gần 30 nước ở châu Âu cũng họp bàn về mọi khía cạnh thực tiễn của kế hoạch triển khai binh sĩ của liên minh tình nguyện sang giúp Ukraina nếu như Hoa Kỳ, Ukraina và Nga đạt được thỏa thuận ngưng bắn 30 ngày. Cuộc họp các chỉ huy quân sự Anh và 30 nước trong « liên minh tình nguyện vì Ukraina » đã đặt được một kế hoạch cụ thể để sẵn sàng đưa tới 20 nghìn quân Anh và châu Âu sang Ukraina trong tương lai, nhưng về ngôn từ thì đây sẽ không phải là lực lượng « gìn giữ hòa bình ». Từ Luân Đôn, thông tín viên Nguyễn Giang ngày 21/03 điểm lại tình hình : « Cuộc họp thứ Năm tuần qua của các tham mưu trưởng quân đội Anh và các nước châu Âu cùng chí hướng muốn đảm bảo an ninh cho Ukraina trong tương lai, dự kiến sẽ không nhằm vào công tác “gìn giữ hòa bình”, điều Nga phản đối, mà chỉ để góp phần “bảo an” (reassurance) cho Kiev một khi thỏa thuận nào đó về ngưng bắn hay hòa ước với Nga đạt được. Con số 20 nghìn quân mà cuộc họp ở Luân Đôn hội tụ đủ, trên giấy tờ thực ra không thể đủ để lập ra đội quân gìn giữ hòa bình. Các chuyên gia nói cần tới 100 nghìn mới đủ để giám sát đường phi quân sự dài hơn 1000 km giữa Nga và Ukraina trong tương lai. Bởi vậy, đây là lực lượng được tập hợp để cho Nga thấy láng giềng Ukraina có các đồng minh bảo vệ. Còn về cụ thể thì lực lượng mà Anh muốn cùng châu Âu triển khai sẽ không ra tới đường giới tuyến, nhưng luôn có thể bảo vệ các cơ sở hạ tầng dân sự, sân bay, bến cảng, nhà máy điện cho Ukraina. Nga dứt khoát bác bỏ việc châu Âu đưa quân đến Ukraina khi có ngưng bắn, nên Luân Đôn sẽ cứ dựa vào lời mời của Kiev để dẫn dắt một lực lượng từ châu Âu tới lãnh thổ Ukraina mà không nhất thiết cần Nga chấp thuận. Hải quân và không quân Anh cũng sẽ cam kết bảo vệ vùng trời và lãnh hải Ukraina. Không rõ đây là cam kết riêng của Anh với Ukraina hay nằm trong khuôn khổ các cam kết chung cùng châu Âu nhưng điều dễ thấy là vai trò ngày càng tăng của Luân Đôn trong công tác điều phối những vấn đề an ninh châu Âu. Thủ tướng Anh Keir Starmer hôm đầu tuần đã tới thăm một tàu ngầm nguyên tử để tỏ quyết tâm của Anh trong việc hỗ trợ Ukraina và nhắc các nước đồng minh rằng ngoài Mỹ thì Anh là nước thứ nhì trong NATO ở châu Âu, bên cạnh Pháp, có năng lực răn đe hạt nhân. Ông Starmer cũng nói rằng nếu vi phạm thỏa thuận ngưng bắn, tổng thống Nga Vladimir Putin sẽ “phải chịu các hậu quả nghiêm trọng”. Trước mắt, Anh ngày càng mạnh mẽ về ngôn từ và khác hẳn Mỹ trong cách nói về Nga, nhưng thực tế ra sao thì vẫn là câu hỏi lớn cho các bên tham gia giải quyết khủng hoảng Ukraina ».…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Giới thiệu sách : « Người của chúng ta ở Washington, Trump trong tay Nga » của nhà báo Régis Genté 9:56
9:56
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai9:56
1977-1987, 10 năm để thiết lập những mối liên lạc đầu tiên giữa Matxcơva và một công dân Mỹ mang tên Donald Trump. Đó cũng là thời điểm « mafia đỏ » đầu tư vào Hoa Kỳ, tập trung khá nhiều ở tòa nhà cao tầng Trump Tower. Từ hơn 4 thập niên qua « người của Kremlin » lúc nào cũng « bao quanh » ông chủ địa ốc tại New York và không ít trong số ấy đã theo chân ông vào Nhà Trắng. Trên đây là một số chương chính trong cuốn sách mang tựa đề Người của chúng ta ở Washington, Trump trong tay Nga, nhà xuất bản Grasset, mà tác giả Régis Genté cho ra mắt bạn đọc tháng 9/2024. Chuyên nghiên cứu về khu vực thuộc ảnh hưởng của Liên Xô, từ 20 năm nay, Régis Genté định cư tại Tbilissi-Gruzia, là phóng viên thường trú của nhiều phương tiện truyền thông Pháp, trong đó có RFI. Matxcơva dễ đoán tính khí của Donald Trump Trong lời nói đầu, tác giả ghi nhận : nhìn từ Matxcơva, Trump không là một chính khách khó lường. Năm 1987 sau chuyến tham quan đầu tiên đến thủ đô của Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết, trở về đất tự do Hoa Kỳ, nhà kinh doanh bất động sản còn trẻ tuổi Donald Trump muốn xây dựng một sự nghiệp chính trị, bắt đầu khẳng định rằng đã đến lúc Mỹ cần « ngừng tài trợ cho an ninh cho những quốc gia khác », các thành viên trong liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương NATO là mục tiêu ông nhắm tới. 37 năm sau, trong cuộc vận động tranh cử ở bang Nam Carolina, Trump tố cáo các đồng minh trong NATO « bần tiện » không tự bảo đảm an ninh cho bản thân : « Không, tôi sẽ không bảo vệ ai hết mà còn khuyến khích Nga muốn làm gì thì làm ». Tại Washington, chính quyền của tổng thống mãn nhiệm Joe Biden, « im như thóc » cho dù điều khoản 5 của Hiệp ước NATO quy định nguyên tắc « liên đới » khi một thành viên liên minh này bị tấn công. « NATO là hồ sơ quan trọng nhất đối với an ninh của nước Nga, nhìn từ điện Kremlin. (…) Trong 40 năm qua, chưa khi nào Donald Trump tuyên bố điều gì bất nhã đối với Liên Bang Xô Viết trước kia và nước Nga ngày nay. Trái lại Vladimir Putin là một nhà lãnh đạo mà tổng thống thứ 45 và 47 của Hoa Kỳ ngưỡng mộ ». Trong cuốn sách này, tác giả trình bày những mối liên hệ chồng chéo, những « cái vòng bao quanh » Donald Trump từ nửa sau thập niên 1970 … khi mà những tay trùm mafia và xã hội đen của nước Liên Xô cộng sản nghiễm nhiên đầu tư vào Hoa Kỳ, mà nhiều đầu mối lại tập trung cả ở New York, ở khu Brighton Beach cũng như ở ngay trong tòa nhà cao tầng trên đại lộ số 5 nơi Trump Tower ngự tọa. Điểm khởi đầu của một mối quan hệ tốt đẹp Trả lời RFI tiếng Việt hôm 03/01/2025 trước khi tổng thống Donald Trump tuyên thệ nhậm chức, nhà báo Régis Genté trở lại điểm khởi đầu khi mà mật vụ KGB của Nga bắt đầu để ý đến một công dân Mỹ kết hôn với một người Tiệp Khắc thuộc quỹ đạo của Liên Xô. Régis Genté « Đây là một câu chuyện dài mà tôi đã thuật lại trong sách. Yếu tố thời gian ở đây hết sức quan trọng. Cũng cần nói thêm, Donald Trump không là nhân viên của cơ quan mật vụ làm việc cho Matxcơva. Ông không là nhân viên và cũng không được mật vụ của Liên Xô trả lương. Trump là người có liên hệ với chính quyền và cơ quan tình báo của Liên Xô trước kia. Mọi việc bắt đầu từ thập niên 1970 khi ông thành hôn với bà Ivana, công dân Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Tiệp Khắc. Lập tức an ninh Tiệp Khắc chú ý đến ông. An ninh Tiệp Khắc không hơn không kém là một chi nhánh của cơ quan an ninh và mật vụ Liên Xô KGB». Những đầu mối bao quanh Trump Trong sách, Régis Genté đã đơn cử nhiều nhân chứng, trích dẫn nhiều tài liệu cho thấy Donald Trump bị theo dõi và người ta muốn hiểu rõ về cuộc sống trong gia đình ông. Chẳng hạn như chính thân phụ bà Ivana báo cáo với cơ quan an ninh Tiệp Khắc về chương trình đi lại, làm việc của Donald Trump trong lúc ông cư ngụ trên đất Tiệp … Nhưng từ 1987 mọi việc tiến triển nhanh hơn, khi ông bắt đầu giao tiếp với khá nhiều công dân Liên Xô : từ giới ngoại giao đến các mạng lưới mafia. Régis Genté : « Năm 1987 Donald Trump lần đầu tiên đặt chân đến thủ đô Matxcơva và ở đây KGB đã mở hẳn một chiến dịch để thắt chặt liên hệ với công dân Hoa Kỳ này. Donald Trump trở thành ‘một mối liên lạc kín’ như trong thuật ngữ của mật vụ Liên Xô thời đó ». Semyon Kisline, mà sau này trở thành Sam là một người Do Thái xuất thân từ Odessa sang Mỹ định cư năm 1972 là gạch nối đầu tiên giữa ông Trump với thế giới trong vòng ảnh hưởng của Liên Xô. Nhân vật này làm chủ cửa hàng bán đồ điện tử Joy- Lud Electronics nằm ở số 200 trên đại lộ Fith Avenue. Đây là « nơi nhân viên của Liên Xô công tác tại New York hay Washington đều lui tới (…) Joy- Lud Electronics do KGB kiểm soát (…) Kisline và các cộng sự có nhiệm vụ báo cáo về tất cả những đối tượng có thể được mật vụ của Liên Xô chú ý » (tr.21). Năm 1980 Donald Trump mượn tiền của Kisline và đó cũng là thời điểm mà ông thực sự « lọt vào mắt xanh » của tình báo Liên Xô và bắt đầu được « KGB chăm sóc » . Đến khoảng 1985-1986, Matxcơva đã trao cho một phụ nữ 29 tuổi, Natalia Doubinina, nhiệm vụ mời hai vợ chồng ông Trump sang Liên Xô. Bản thân bà Doubinina là con gái của một nhà ngoại giao Liên Xô hàng đầu, đại diện thường trực của Matxcơva tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York. Tháng 07/1987 Ivana và Donald Trump đến Matxcơva. Ông Trump trở lại thành phố này thêm 3 lần nữa trước khi ra tranh cử tổng thống Hoa Kỳ. Một trong những điều vừa thú vị, vừa bắt độc giả phải rất tập trung trong cuốn sách của Régis Genté, là tác giả đã đề cập đến rất nhiều nhân vật cao cấp lui tới các cửa công quyền, am hiểu guồng máy chính trị của chế độ ở Matxcơva cho đến khi Liên Xô sụp đổ, và dưới thời của Liên bang Nga sau này. Đó có thể là những nhân viên ngoại giao hàng đầu, những « ông lớn » trong hàng ngũ của bên an ninh, tình báo …. Và có cả những ông trùm mafia khét tiếng đã làm nên sự nghiệp từ quần đảo ngục tù Goulag … và thường có « những liên hệ mật thiết và ở cấp rất cao với mật vụ Liên Xô và Nga ». Tác giả cuốn Người của chúng ta ở Washington, Trump trong tay Nga đã trích dẫn nhiều nhân chứng hàng đầu, (thường là những điệp viên của Nga đã đào tẩu sang Mỹ hay các nhà báo điều tra và hồ sơ mật của an ninh Hoa Kỳ) cho thấy những thành phần này dùng tiền để kết nối với quỹ đạo của ông Trump, đặc biệt và vào những thời điểm mà sự nghiệp của Donald Trump có nhiều thăng trầm … Tại Matxcơva cũng như New York, ai là những người đã trực tiếp liên lạc với ông Trump ? Régis Genté : « Như đã biết, Liên Xô là một chế độ độc tài toàn trị, có nghĩa là không một công dân nào thoát khỏi tai mắt của chính quyền hay thoát khỏi ảnh hưởng của chế độ. Thí dự chúng ta biết nhiều về tổ chức được gọi là Mafia Đỏ. Mạng lưới này trỗi lên từ quần đảo ngục tù và hoạt động với sự hậu thuẫn của chính quyền, của công an và mật vụ …Vào thập niên 1970 trong một đợt di tản, khá nhiều người Do Thái tại Liên Xô -chính xác hơn là ở Ukraina và Odessa đã sang định cư tại Hoa Kỳ và số này tập trung ở khu Brighton Beach tại New York. Ông Trump giao tiếp với cộng đồng này, trước hết là qua trung gian của thân phụ ông là Fred Trump. Fred là một doanh nhân trong ngành địa ốc. Thành phần từ Liên Xô sang Mỹ định cư đó vì lợi ích của chính họ và của Matxcơva đã đầu tư vào nhiều chương trình của gia đình Trump. Như đã biết, Donald Trump đã có lúc suýt khánh tận, ông đã sáu lần suýt trắng tay, đặc biệt là vào thời điểm Hoa Kỳ bị khủng hoảng tín dụng địa ốc hồi 2008. » Régis Genté dựa trên những tài liệu điều tra đưa ra một danh sách khá dài những đầu mối của cơ quan tình báo Liên Xô và Nga « bao quanh » ông Trump trong hàng chục năm và không ít người trong số đó « thậm chí đã theo chân ông vào tận Nhà Trắng từ ngày 20/01/2017 ». Về phía các công dân Mỹ thì có nào là : « Michael Flynn (người được tổng thống Trump bổ nhiệm làm cố vấn an ninh quốc gia), Paul Manafort (luật sư và là một nhân vật chủ chốt trong cuộc vận động tranh cử tổng thống của ông Trump 2016), Carter Page (một chuyên gia về tài chính ngân hàng và bị FBI nghi ngờ là « người của nước ngoài), Dmitri Simes (công dân Mỹ gốc Nga và đang bị truy tố do cộng tác với truyền thông Nga và cũng từng là cố vấn cho ứng cử viên tổng thống Donald Trump hồi 2016), Michael Cohen (nguyên là một luật sự thân tín của nhà tỷ phú Trump), George Papadopoulos (một cố vấn của Trump hồi 2016) , Roger Stone (« bạn » lâu năm của tổng thống Mỹ thứ 45), Jeff Sessions (bộ trưởng Tư Pháp dưới thời tổng thống Trump) … » (tr.84-85). Có sự can thiệp của Putin ? Riêng về nhân vật Papadopoulos, Régis Genté viết : « Mùa xuân 2016, một lần choáng hơi men, nhân vật này tiết lộ với một nhà ngoại giao Úc, ông được chỉ thị của chính Nga theo đó, Matxcơva có thể sẽ yểm trợ ứng viên của đảng Cộng Hòa bằng cách cho công bố nặc danh những thông tin bất lợi cho Hillary Clinton ». Bà Clinton đại diện cho đảng Dân Chủ ra tranh cử tổng thống và là đối thủ của Donald Trump. (tr.85) Còn về phía Nga, danh sách cũng dài không kém. Trả lời RFI tiếng Việt, Régis Genté nhắc lại ngay từ thập niên 1980, đã có không ít « thân chủ » từ xứ cộng sản Liên Xô mang tiền sang Mỹ, đổ vào New York và mua lại nhiều căn hộ trong tòa tháp Trump Tower. Cũng không hiểu do một sự tình cờ nào mà năm 1992 một tay anh chị khét tiếng của Matxcơva, Viatcheslav Ivankov (chết từ 2009) đang bị FBI truy lùng đã lẩn trốn ngay trong một căn hộ nguy nga cũng trong tòa cao ốc trên đại lộ Fifth Avenue. Chế độ cộng sản Liên Xô sụp đổ. Năm 2008 khi mà toàn thế giới bị kéo vào cuộc khủng hoảng địa ốc và tài chính, tỷ phú địa ốc New York suýt phá sản, và lại được một số các nhà hảo tâm Nga giúp đỡ … Tuy nhiên lá bài quan trọng nhất của ván cờ giữa Donald Trump và Matxcơva có lẽ xoay quanh nhân vật Felix Sater. Theo báo New York Times 2017 , doanh nhân người Mỹ Felix Sater là một đầu mối giữa tập đoàn Trump với phía Nga về « dự án xây dựng một Trump Tower » ngay giữa lòng thủ đô Matxcơva hồi 2015. Vẫn theo tờ báo này tổng thống Vladimir Putin đã « tán thành » dự án nói trên. Nhưng như đã biết, kết quả đã không thành. Régis Genté giải thích với RFI Tiếng Việt về nội dụng một bức thư điện tử Sater đã gửi cho Michael Cohen, luật sư của Donald Trump. Régis Genté : « Các nhà điều tra của bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đã tìm thấy trong hồ sơ của doanh nhân Felix Sater một email với nội dung như sau : ‘Chúng ta có một cơ hội ngoài mong đợi để người của chúng ta được bầu vào Nhà Trắng (…) Tôi sẽ thuyết phục Vladimir Putin hỗ trợ chúng ta trong mục đích này’. Chính từ email ấy, tôi đã chọn tựa đề cho cuốn sách mang tên Người của chúng ta ở Washington. Nội dung bức thư điện tử của Sater cho thấy giới điều tra đã tiến rất gần đến khả năng đã có một sự thông đồng giữa Donald Trump và điện Kremlin ». Sau nhiều chuyến đi tới Matxcơva từ 1987 đến tận 2015 Donald Trump có dự án đầu tư nào tại thủ đô nước Nga hiện tại hay không ? Régis Genté trả lời là không nhưng không loại trừ khả năng Matxcơva đã tìm đúng mạch để « phỉnh » một công dân Mỹ : Donald Trump thích tiền và muốn làm tất cả để « được thiên hạ ngưỡng mộ », muốn mở rộng địa bàn làm ăn ra ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ, ngoài thế giới tư bản. Régis Genté : « Nhiều lần, và đó từng là mục tiêu chuyến thăm Matxcơva đầu tiên của ông Trump năm 1987 người ta đã nêu lên khả năng xây dựng một tòa cao ốc Trump Tower cách không xa điện Kremlin ra để nhử nhà tỷ phú người Mỹ này. Điều đó trúng ý ông bởi Donald Trump muốn quốc tế hóa các thương vụ làm ăn của ông. Nhưng dự án đó đã không thành. Không có tòa cao ốc nào mang tên ông ở thủ đô Matxcơva cả. Nhưng đó là bước khởi đầu cho phép ông Trump mở rộng địa bàn ra ngoài phạm vi nước Mỹ. Nhưng đề xuất tương tự đã liên tục nối đuôi nhau cho đến mãi tận 2015 khi ông quyết định ra tranh cử tổng thống, trước hết là ở cấp sơ bộ để đại diện cho đảng Cộng Hòa ». Nga hài lòng với những gì Trump đang làm Ba chương cuối của cuốn sách mang tựa đề Người của chúng ta ở Washington, Trump trong tay Nga, tập trung vào phản ứng của Matxcơva khi ông Trump đắc cử trong nhiệm kỳ đầu hồi tháng 11/2016, vào đánh giá của Vladimir Putin về tổng thống siêu cường số 1 thế giới, về nhà lãnh đạo của một nền dân chủ lớn trên toàn cầu … về nỗi ám ảnh của Donald Trump khi đòi NATO phải « trả giá » để được Mỹ bảo vệ … Vladimir Putin hiểu rằng nước Mỹ trong tay Donald Trump sẽ « để cho nước Nga xây đắp ảnh hưởng cần thiết vì an ninh và những tham vọng bá chủ của Matxcơva (…) nước Mỹ dưới sự dẫn dắt của Trump không làm bất kỳ một điều gì để củng cố nền dân chủ trên thế giới (…) nước Mỹ đó cũng sẽ không tài trợ cho các xã hội dân sự cho các phương tiện truyền thông » ở những quốc gia như Gruzia, Ukraina, Kazakhstan … « Nước Mỹ đó sẽ không còn cổ vũ cho các cuộc bầu cử tự do và công bằng, không còn đứng về phía những tiếng nói đối lập » (tr.205).…
T
Tạp chí đặc biệt


1 Ukraina – Nga: Chiến tranh tiếp tục, ‘‘xung đột đóng băng’’ hay đàm phán hòa bình ? 9:37
9:37
Putar Nanti
Putar Nanti
Daftar
Suka
Menyukai9:37
Sự kiện thời sự đặc biệt đáng chú ý trong tuần qua là đàm phán Ukraina – Mỹ tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh Nga – Ukraina. Washington và Kiev ra tuyên bố chung, đề xuất 30 ngày ngừng bắn. « Bóng » giờ ở bên sân Nga: Putin tuyên bố « ủng hộ » ngưng bắn, nhưng đặt thêm nhiều điều kiện… Lập trường của Mỹ và Nga thực hư ra sao? Chiến tranh tiếp diễn, « xung đột đóng băng » hay Nga – Ukraina sẽ bắt đầu đàm phán tìm kiếm giải pháp hòa bình? Trump tiếp tục chính sách đơn phương áp mạnh thuế với hàng nhập khẩu từ các quốc gia đồng minh, chứng khoán trên thị trường tài chính Mỹ Wall Street sụt giảm mạnh. Nguy cơ kinh tế Mỹ suy thoái lơ lửng khiến giới đầu tư lo ngại : ngày 14/03/2025, giá vàng lần đầu tiên trong lịch sử vượt ngưỡng 3.000 đô la/một ounce (tương đương 31 gram). Đứng trước áp lực ngân sách bị cắt giảm nghiêm trọng, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc khởi động sáng kiến « UN80 Initiative » cùng « UN 2.0 », với mục tiêu cải tổ triệt để định chế quốc tế 80 năm tuổi đời này. Cựu tổng thống Philippines Rodrio Duterte - bị cáo buộc về cái chết của hàng chục nghìn người vô tội - bị áp giải sang Tòa án Hình sự Quốc tế (La Haye, Hà Lan) ngay sau khi bị bắt. Trên đây là các chủ đề chính của Tạp chí Thế giới Đó đây tuần này. Từ cuộc điện đàm « phản bội » (ngày 12/02) đến đề xuất ngừng bắn « ngoạn mục » (ngày 11/03) Trong tuần qua, đối với không ít người, cơ hội chấm dứt cuộc chiến Nga xâm lược Ukraina, bước sang năm thứ 4, dường như hé mở sau đàm phán tại Ả Rập Xê Út lần đầu tiên, ngày 11/03/2025, giữa hai phái đoàn cấp cao Mỹ và Ukraina. Sau cuộc họp, Washington và Kiev ra tuyên bố chung, đề nghị hai bên đình chiến « 30 ngày », mà không kèm theo các điều kiện tiên quyết. Cuộc họp nói trên được nhiều nhà quan sát nhìn nhận như một bước chuyển ngoạn mục, khiến Ukraina được coi là từ chỗ bên bị gạt sang lề, lo ngại bị đàm phán trên lưng, đột ngột trở lại vị trí trung tâm của bàn cờ, mở ra cơ hội cho đàm phán tìm giải pháp hòa bình. Đọc thêm : Chấp thuận đề xuất ngừng bắn - Đòn ngoại giao đưa Ukraina trở lại trung tâm cuộc chơi Trên phương diện truyền thông, cả phía Mỹ và phía Nga đều thể hiện rất nỗ lực. Tổng thống Mỹ Donald Trump thậm chí khẳng định có một hy vọng rất lớn để chấm dứt xung đột. Thông tín viên Loubna Anaki tường trình từ New York : « ‘‘ Có một hy vọng rất lớn là cuộc chiến tranh kinh hoàng, đẫm máu này rút cục sẽ chấm dứt’’, ông Donald Trump viết trên mạng xã hội Truth Social của mình như vậy. Tổng thống Mỹ đã hoan nghênh các trao đổi giữa đặc sứ Steve Witkoff với các quan chức Nga. Ông Trump cũng kêu gọi tổng thống Nga Putin, ‘‘tha mạng cho hàng nghìn binh sĩ đang bị quân đội Nga vây hãm’’, ngụ ý nhắc đến các thông tin của Nga nói về các lực lượng Ukraina bị bao vây tại tỉnh Kursk. Một thông tin mà chính quyền Kiev đã nhiều lần bác bỏ. Hôm qua, các quan chức Nga đã chuyển cho đặc sứ Mỹ các điều kiện của Matxcơva liên quan đến một thỏa thuận ngừng bắn, và cho biết rõ là tổng thống Putin đang đợi cuộc gọi của tổng thống Trump. Sáng nay, Nhà Trắng thông báo hiện tại không có cuộc điện đàm dự kiến giữa lãnh đạo hai nước, nhưng ‘‘tình hình có thể thay đổi vào bất cứ lúc nào’’. Cùng lúc đó, lãnh đạo ngoại giao Mỹ đã tỏ ra lạc quan một cách thận trọng về khả năng xung đột chấm dứt nhanh chóng. Ông Marco Rubio giải thích là còn nhiều điều cần thảo luận. Ngoại trưởng Rubio tuyên bố : ‘‘chúng tôi chưa bao giờ nói rằng việc này là dễ dàng, nhưng tình hình hiện nay khả quan hơn so với cách nay một tuần’’ . » Đọc thêm : Mỹ đứng về phía Nga chống lại châu Âu : Thế sự đảo điên ! Chính sách của Donald Trump về chiến tranh Ukraina từ hơn hai tháng qua chuyển biến khó lường. Từ chỗ khẳng định chấm dứt chiến tranh « trong vòng 24 giờ » đến gia hạn thành 100 ngày. Từ cuộc điện đàm bất ngờ với tổng thống Nga bị nhiều người coi là hành động « phản bội » đồng minh, đứng hẳn về phía Nga ngay trước khi bước vào đàm phán, đến cuộc đàm phán bất ngờ với Ukraina và đề xuất ngừng bắn 30 ngày… Mỹ gỡ bí cho Nga : « Vở kịch » của Trump và Putin ? Về phản hồi nước đôi của Nga sau đề xuất ngừng bắn 30 giờ, chính quyền Ukraina tỏ ra nghi ngờ cao độ. Chính quyền nhiều nước phương Tây, trong có Pháp và Đức, đã chỉ trích các phản hồi của điện Kremlin, bị cáo cuộc là chỉ để « câu giờ ». Đọc thêm : Ngưng bắn ở Ukraina : Trò « tung hỏa mù » hay « câu giờ » của TT Nga Putin ? Tuy nhiên hoài nghi không chỉ hướng về phía Matxcơva. Các nỗ lực hướng đến một thỏa thuận ngừng bắn, đàm phán hòa bình, do chính quyền Trump khởi xướng, cho dù được coi là hé mở cơ hội cho hòa bình, cũng đang được nhìn nhận rất dè dặt từ Ukraina. Trái ngược với quan điểm lạc quan, cựu sĩ quan Pháp Guillaume Ancel , chuyên gia quân sự, trả lời đài RFI, tỏ ra cảnh giác cao độ. Ông nhận định đây chỉ là một « vở kịch » của chủ nhân điện Kremlin và chủ nhân Nhà Trắng: « Trump và Putin đang diễn cho chúng ta xem một vở kịch mà họ đã soạn sẵn. Chúng ta nhớ là ngày 12/02 vừa qua, tổng thống Mỹ Donald Trump nói sẽ khởi động ngay lập tức đàm phán về Ukraina. Cần hiểu rằng, trong quan điểm của Trump, các đàm phán trên thực tế đã kết thúc. Trump đã thỏa hiệp với Putin rồi. Và tất cả những gì chúng ta đang chứng kiến chỉ là diễn kịch. Có nghĩa là giờ đây, sau khi đã bắt buộc người Ukraina phải chấp nhận ngừng bắn, mà thực sự phải nói rằng điều này là hết sức bất lợi cho họ, Trump đã hoàn toàn không đòi hỏi gì từ phía Nga. Bây giờ ông ta giả bộ đang đàm phán với Nga trong lúc chính nhờ Trump mà Putin đã giành được một chiến thắng trong bối cảnh phía Nga đang hoàn toàn bị sa lầy trong cuộc chiến tranh này. Như vậy có nghĩa là sẽ có một thỏa thuận ngừng bắn, buộc Kiev phải từ bỏ 20% lãnh thổ Ukraina cho Nga, cấm Ukraina tham gia vào liên minh phòng thủ NATO. Và theo thỏa thuận này, tổng thống Zelensky cũng sẽ bị loại trừ. » Đọc thêm : Triển vọng đàm phán Nga - Mỹ về Ukraina - Chiến lược đòi hỏi tối đa của Putin Cho đến nay, không có gì cho thấy điện Kremlin từ bỏ các yêu sách chủ yếu để chấm dứt chiến tranh chống Ukraina. Chính quyền Putin không chỉ đòi Ukraina không được gia nhập NATO hay buộc Kiev phải nhân nhượng các vùng lãnh thổ đông nam, mà còn muốn giải giáp quân đội Ukraina, và thiết lập một chính quyền thân Matxcơva tại Ukraina. Việc Trump ủng hộ quan điểm của Nga về việc Ukraina không gia nhập NATO và không thể trở lại đường biên giới năm 2014 có đủ để Putin chấp nhận đàm phán về một nền hòa bình lâu dài ? Các nỗ lực hướng đến ngừng bắn, mà Mỹ thúc đẩy, liệu có mở ra cơ hội cho đàm phán hòa bình chấm dứt xung đột, hay sẽ chỉ dẫn đến tạm « đóng băng » xung đột, để rồi chiến tranh bùng nổ trở lại, như điều đã diễn ra sau các thỏa thuận Minsk 1 và Minsk 2 (2014 – 2015) ? Tự chủ quốc phòng và an ninh: Châu Âu sẽ trả giá đắt nếu thiếu một « chiến lược chung vững chắc » Bất luận việc tìm kiếm ngừng bắn và đàm phán Nga – Ukraina xoay chuyển ra sao, có một điều rõ ràng là châu Âu đang nỗ lực gấp bội trong việc thúc đẩy nền quốc phòng chung. Đây là điều chưa từng có kể từ sau Đệ nhị Thế chiến, khi an ninh của châu Âu trong 80 năm qua, về cơ bản do Mỹ đảm trách. Sự kiện đáng chú ý trong tuần qua là ngày 11/03/2025, tổng thống Pháp Emmanuel Macron tiếp tổng tham mưu trưởng quân đội của 30 nước thành viên Liên Âu cùng Liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO), bao gồm cả Anh và Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng không có Mỹ. Mục tiêu chính là nhằm xác định các bảo đảm an ninh cho Ukraina trong trường hợp hưu chiến, đồng thời xem xét một cơ cấu phòng thủ chung cho châu lục. Đọc thêm : Tăng cường khả năng quân sự và yểm trợ Ukraina, trọng tâm thượng đỉnh Liên Âu Tăng cường gấp bội tiềm lực quân sự là cần thiết cho quốc phòng an ninh, nhưng xét về toàn cục, một « kiến trúc an ninh » bền vững cho châu Âu đòi hỏi một chiến lược tổng thể tính đến sự cân bằng lực lượng giữa các khối nước đối địch. Một nền hòa bình « lâu dài và bền vững » Nga – Ukraina phải chăng không thể thiếu yếu tố này ? Đọc thêm : TT Mỹ Donald Trump muốn đàm phán về phi hạt nhân hóa với Nga và Trung Quốc Nhà ngoại giao Pháp kỳ cựu Pierre Vimont (*) khuyến cáo châu Âu không nên thụ động « chờ đợi » chính sách của Trump và « cần khẩn trương tham vấn Kiev để bắt đầu cùng suy nghĩ về một lối thoát khỏi chiến tranh phù hợp với lợi ích an ninh của châu Âu » (trích tham luận : « Ukraine : l'année de la paix incertaine / Ukraina : Năm của hòa bình đầy bất trắc », đăng tải trên tạp chí Politique étrangère, vol. 90, n° 1, Mùa xuân 2025, tr. 95). Thách thức với châu Âu là phải chuẩn bị chiến lược để đối phó với « thế cân bằng bấp bênh về địa-chính trị » với Nga trong nhiều năm tới, phải « học cách xây dựng thế trận an ninh vững chắc hơn dọc biên giới phía đông, quản lý chính sách trừng phạt có khả năng sẽ phải kéo dài và tiến hành các hành động ngoại giao đủ sức chống lại các nỗ lực của Nga nhằm làm suy yếu ảnh hưởng của châu Âu trên toàn cầu ». Đối phó được với trật tự an ninh bất ổn này sẽ cho phép châu Âu trở thành « một thực thể địa chính trị thực sự ». Đọc thêm : Bảo vệ Ukraina và tái lập quan hệ với Nga - Thách thức của một « kiến trúc an ninh châu Âu » mới (phần cuối bài) Trước khi chiến tranh bùng nổ đầu năm 2022, các nước châu Âu đã từng ở thế bị động. Hơn 3 năm sau, liệu châu Âu có đủ năng lực vươn lên xác lập một chiến lược chung để hướng đến « một nền hòa bình công bằng và bền vững » cho Ukraina, cho châu Âu hay không ?« Thiếu đi một chiến lược chung vững chắc, Liên Hiệp Châu Âu ắt có nguy cơ sẽ phải trả giá đắt » một lần nữa, nhà ngoại giao Pierre Vimont cảnh báo. Trump và « chiến tranh thuế »: Hứng khởi của giới đầu tư tắt ngấm, kinh tế Mỹ có nguy cơ suy thoái Gần 2 tháng kể từ khi lên cầm quyền, chính sách đe dọa tăng thuế mạnh và ồ ạt, cùng lúc tiền hậu bất nhất, của tổng thống Mỹ nhắm vào nhiều nước, trong đó có nhiều quốc gia đồng minh, như Mêhicô, Canada, Liên Âu, từ nhiều tuần qua, bắt đầu để lại những hậu quả rõ nét đối với giới đầu tư. Cụ thể như ngày thứ ba, 11/03, tổng thống Trump quyết định tăng thuế đến 50% với các mặt hàng nhôm và thép của Canada, nhưng ngay lập tức quyết định hoãn lại, để rồi hôm sau lại thông báo tăng lên 25%. Ông Trump khẳng định chủ trương tăng thuế hàng nhập khẩu đối với các nước xuất siêu vào Mỹ sẽ khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài lập cơ sở sản xuất ngay trên đất Mỹ. Trên thực tế, theo giới chuyên gia, với chính sách chống lại các nền tảng của thương mại quốc tế đương đại này, gậy ông sẽ đập lưng ông. Trả lời đài RFI, kinh tế gia Bruno Colmant, giáo sư Trường đại học Tự do Bruxelles (Bỉ), giải thích về các hậu quả của chính sách này. Giải thích được đưa ra trước khi ông Trump tung ra quyết định tăng thuế với các mặt hàng thép nhôm nói trên: « Chúng ta đã quay trở lại điểm xuất phát ban đầu, bởi hôm nay chỉ số chứng khoán có uy tín S&P đã trở về ngang với thời điểm ông Trump đắc cử tổng thống, thậm chí còn thấp hơn. Điều này có nghĩa là niềm hứng khởi cao độ của giới đầu tư sau khi Trump đắc cử đã biến mất. Việc tăng thuế nhập khẩu có nghĩa là tất cả những gì mà người Mỹ nhập khẩu sẽ trở nên đắt hơn. Chúng ta biết rằng nước Mỹ nhập nhiều hơn xuất, điều đó có nghĩa là người tiêu dùng Mỹ sẽ phải trả nhiều tiền hơn. Mặt khác, các nước khác cũng bắt đầu phản ứng lại, như Canada và có thể sau đó là Mêhicô. Và trên thực tế, các nhà xuất khẩu Mỹ, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ phải gánh chịu hậu quả do các biện pháp trả đũa ». Đầu tháng 3/2025, chỉ trong một vài ngày, tiền lời trên sàn chứng khoán mà các ngân hàng lớn của Mỹ JPMorgan Chase, Citigroup, Bank of America hay Goldman Sachs thu được kể từ khi ông Trump đắc cử tổng thống, ngày 05/11/2024, đã bốc hơi hoàn toàn. Theo kinh tế gia trưởng của JPMorgan, ông Bruce Kasman, trong cuộc trả lời phỏng vấn Reuters ngày 12/03/2025, nếu các chính sách tăng thuế được chính quyền Trump áp dụng như dự kiến từ ngày 01/04, với hệ quả là các trả đũa thương mại, thì xác suất kinh tế Mỹ lâm vào suy thoái « có thể lên đến 50% hoặc hơn ». Trump và áp lực tài chính chưa từng có: Liên Hiệp Quốc cải tổ triệt để ở tuổi 80 Đối với tổ chức Liên Hiệp Quốc, vừa tròn 80 tuổi, ngày 12/03/2025 là một ngày đặc biệt. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres quyết định tung ra sáng kiến UN80 nhằm cải tổ triệt để định chế này. Vì sao Liên Hiệp Quốc cải tổ vào lúc này ? Thông tín viên Carrie Nooten từ New York giải thích : « Việc Mỹ và Trung Quốc, hai quốc gia đóng góp nhiều nhất cho ngân sách của Liên Hiệp Quốc, trả tiền ngày càng chậm hơn trong năm, đang gây áp lực lên t ổ chức này. Sự sụt giảm của ngân sách viện trợ nhân đạo và các đợt cắt giảm ngân sách gần đây hiện đang làm suy yếu toàn bộ thể chế khiến người đứng đầu Liên H iệp Quốc buộc phải khởi xướng cuộc cải cách mới này. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã đặc biệt cẩn thận trong việc lựa chọn từ ngữ khi trình bày sáng kiến UN80 ngày hôm qua . Ông nói Liên Hiệp Quốc phải ‘‘ thực hiện hiệu quả các mục tiêu của mình ’’ và chịu trách nhiệm trước ‘‘những người đóng thuế trên toàn thế giới ’’, tài trợ cho tổ chức này. Tổng thư ký Antonio Guterres đã chọn các từ ngữ được Donald Trump và các cộng sự ưa thích. Ông Daniel Forti, nhà phân tích t huộc tổ chức tư vấn International Crisis Group giải thích : ‘‘r ất khó để đánh giá sáng kiến này , nếu không tính đến những gì đang diễn ra ở Washington, nhưng rõ ràng là Mỹ không phải là quốc gia duy nhất muốn Liên H iệp Quốc tiến hành hoạt động này. Châu Âu, nói riêng, hiện tại đang chuyển hướng chi tiêu nhiều cho lĩnh vực quốc phòng và các nhu cầu nội bộ . Trong khi đó, các vị biết đấy, phần lớn thế giới đang thất vọng với các nước phương Bắc , vì không cung cấp đủ kinh phí cho phát triển, cho viện trợ và hỗ trợ nhân đạo. Chúng tôi thấy một số quốc gia mong muốn có một sáng kiến như vậy, có lẽ không đến mức phô trương như Mỹ, nhưng Hoa Kỳ không phải là b ên duy nhất quan tâm.» Hiện vẫn chưa có thời hạn cụ thể nào được ấn định cho việc hoàn tất cuộc kiểm toán UN80 đối với Liên Hiệp Quốc . » « Trời có mắt »: Cựu tổng thống Philippines bị Tòa án quốc tế bắt giữ khẩn cấp Trong lĩnh vực nhân quyền, ngày 11/03/2025 có thể sẽ được ghi nhận như một thời điểm lịch sử. Cựu tổng thống Philippines Rodrigo Duterte bị bắt ngay tại sân bay khi trở về từ Hồng Kông, và bị áp tải ngay trong đêm sang Tòa hình sự quốc tế ở Hà Lan, nơi ông Duterte phải ra hầu tòa vì cáo buộc phạm « tội ác chống nhân loại ». Trả lời RFI, chuyên gia Aymeric Alluin, thuộc tổ chức bảo vệ nhân quyền Amnesty International France, giải thích về ý nghĩa của sự kiện này : « Đây là một sự kiện chưa từng có. Nếu xét riêng việc bắt giữ này thì có thể là chuyện bình thường, nhưng nếu đặt việc này trong bối cảnh hiện nay thì hoàn toàn không phải như vậy. Hiện tại chúng ta thấy là tư pháp quốc tế đang bị thách thức. Nhiều quốc gia thành viên sáng lập Tòa án Hình sự quốc tế đã không ngừng chỉ trích và phủ nhận định chế này. Nhưng như chúng ta thấy, nếu các quốc gia có thiện chí thì tư pháp vận hành. Đây là một thông điệp tuyệt vời về việc tư pháp quốc tế vẫn đang hoạt động. Đây là một thông điệp tuyệt vời gửi đến các nạn nhân. Tòa án Hình sự Quốc tế sẽ tiếp tục truy tố các lãnh đạo cao cấp. Thông điệp được gửi đi ở đây là : đây là một trường hợp của Philippines, nhưng ngày mai có thể là nước Nga, liên quan đến chiến tranh tại Ukraina. Đây là một thông điệp cảnh báo quan trọng gửi đến tất cả các lãnh đạo cao cấp. Hãy giữ vững niềm tin ! Đặc biệt là niềm tin vào định chế tư pháp quốc tế ». Ghi chú (*) Pierre Vimont nguyên là tổng thư ký điều hành của cơ quan đối ngoại Liên Âu, người được tổng thống Pháp Macron bổ nhiệm làm đại diện đặc biệt trong các đối thoại vì « một kiến trúc an ninh châu Âu và xây dựng niềm tin với Nga » năm 2019.…
Selamat datang di Player FM!
Player FM memindai web untuk mencari podcast berkualitas tinggi untuk Anda nikmati saat ini. Ini adalah aplikasi podcast terbaik dan bekerja untuk Android, iPhone, dan web. Daftar untuk menyinkronkan langganan di seluruh perangkat.